Bàn về Tội chứa chấp hoặc tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có
Nguyễn Thị Thu Hồng – Giảng viên Khoa kiểm sát hình sự
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh
Tội chứa chấp hoặc tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Mặc dù BLHS quy định khung pháp lý về hành vi phạm tội, tuy nhiên bên cạnh việc quy định này thì vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế như: một số nội dung chưa được giải thích cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến việc xử lý hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội trên thực tế chưa được triệt để, hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này chưa cao, cụ thể như sau:
1. Dấu hiệu pháp lý của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Khoản 1, Điều 323 BLHS năm 2015 quy định “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”
– Khách thể: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” không chỉ xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà còn xâm phạm đến hoạt động của cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc tài sản có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội.
– Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà mình biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong đó “chứa chấp tài sản” là hành vi cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản, cho để nhờ, cho thuê địa điểm để che giấu, cất giấu, bảo quản tài sản đó ở bất kỳ nơi nào mà người phạm tội có thể chi phối, kiểm soát được[1]. “Tiêu thụ tài sản” là hành vi mua bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó”[2]
– Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức rõ tài sản do người khác phạm tội mà có mà vẫn thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản này và không hứa hẹn, thỏa thuận trước với người phạm tội. Nếu đã hứa hẹn, thỏa thuận trước với nhau về việc chứa chấp, tiêu thụ tài sản hoặc tuy không có hứa hẹn, thỏa thuận trước với nhau nhưng trước đó người này đã từng chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có thì vẫn coi là đồng phạm đối với hành vi chiếm đoạt tài sản với vai trò giúp sức chứ không phải là hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ[3].
Người thực hiện tội phạm “Biết rõ” tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là “tài sản do phạm tội mà có”. “tài sản do người khác phạm tội mà có là tài sản mà có căn cứ chứng minh được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”[4]. Nếu như người chứa chấp hoặc tiêu thụ không biết hoặc không buộc phải biết về việc tài sản do phạm tội mà có thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
2. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật.
– Ý thức của người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Vấn đề này hiện nay có 2 quan điểm chưa thông nhất:
Quan điểm 1: Cho rằng ý thức chủ quan là tiêu chuẩn để đánh giá là việc họ có biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không bởi vì nếu người phạm tội không thừa nhận thì không có cơ sở nào để xác định người phạm tội là “biết rõ”.
Quan điểm 2: Cho rằng dấu hiệu “biết rõ” được đánh giá trên cơ sở “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”. Theo quan điểm này, các cơ quan tố tụng phải hiểu một cách linh hoạt cụm từ “biết rõ” dựa vào sự đánh giá hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan do đó cần phân tích hành vi của họ trên cơ sở đánh giá các yếu tố liên quan đến nhân thân, mối quan hệ của họ với người phạm tội, môi trường sống, làm việc…để làm căn cứ, đánh giá xem là họ có thực sự biết tài sản họ chứa chấp, tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có hay không.
Tác giá đồng tình với quan điểm thứ hai bởi lẽ tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLL-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011 quy định: “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, trên tinh thần dựa vào Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS năm 2015 về Tội rửa tiền đã quy định “biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có” như sau: “4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội “nguồn” cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
b) Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
c) Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
d) Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”[5]
Bên cạnh đó, theo tác giá việc chứng minh lỗi của người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ phải xuất phát từ lỗi của họ khi thực hiện hành vi phạm tội chứ không phải xuất phát từ nhận thức của họ. Việc dựa vào lời khai của đối tượng để buộc tội là không chắc chắn, có thể các đối tượng ban đầu khai nhận biết rõ tài sản do phạm tội mà có, nhưng sau đó họ thay đổi lời khai thì cơ quan tố tụng sẽ không còn căn cứ để buộc tội. Chính vì vậy, cần hiểu cụm từ “biết rõ” trong “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” một cách toàn diện, đầy đủ hơn và không đánh giá dựa vào lời khai nhận trực tiếp của đối tượng phạm tội mới xác định là đối tượng phạm tội “Biết rõ” hay không và trên thực tế một số cơ quan tiến hành tố tụng đã không hiểu rõ nội dung của quy định này cũng như ngại trách nhiệm nên chỉ dựa vào sự thừa nhận của người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ có biết hay không biết tài sản đó là do phạm tội mà có để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến trong một số trường hợp dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
– Về nội dung dấu hiệu “do người khác phạm tội mà có”.
Như đã phân tích tài sản “do người khác phạm tội mà có” là tài sản mà có căn cứ chứng minh được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, vấn đề này trên thực tiễn vẫn còn có một số quan điểm chưa thống nhất có thể nêu lên một số trường hợp có tính chất điển hình sau đây:
A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với giá trị tài sản là 1.800.000 đồng, B không hứa hẹn trước và biết rõ tài sản do A trộm cắp nhưng vì lợi nhuận đã mua tài sản trộm cắp này của B.
– Vì A không đủ định lượng về trị giá tài sản để cấu thành tội Trộm cắp tài sản nên A không bị xử lý hình sự và chỉ bị xử lý hành chính, trong trường hợp này B có phạm vào “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” không?. Hiện có 02 quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Quan điểm 01: B phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) lý do điều luật này đã quy định yếu tố định lượng về trị giá tài sản chiếm đoạt xác định tình tiết định khung tăng nặng chứ không quy định định lượng tối thiểu của trị giá tài sản là dấu hiệu định tội tại Khoản 1 Điều 323 BLHS và người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản buộc phải biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ tài sản đó có trị giá thực tế như thế nào. Trong trường hợp này B biết rõ tài sản này do A phạm tội mà có, do vậy việc B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ là phù hợp, tránh bỏ lọt tội phạm.
Quan điểm 2: B không phạm “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Mặc dù, B có ý thức chủ quan biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là do A trộm cắp. Tuy nhiên, hành vi của A là hành vi vi phạm pháp luật hành chính, không phải là hành vi phạm tội, do đó B không phạm tội.
Theo tác giả, đối với “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” phải có điều kiện, tiền đề là có một hành vi phạm tội đã được thực hiện để có tài sản này, tức là nó có nguồn gốc từ hành vi phạm tội của người khác và người tiêu thụ tài sản đó mới phạm tội tiêu thụ. Mặt khác, đối tượng của tội phạm này là tài sản có được từ bất cứ tội nào chứ không chỉ riêng đối với các tội xâm phạm sở hữu và định lượng trị giá tài sản trong mỗi tội là khác nhau, trong đó có cả tội không quy định định lượng (như Tội cướp giật tài sản). Do đó điều luật không quy định định lượng trong cấu thành cơ bản không có nghĩa là chỉ cần có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, dù trị giá tài sản là bao nhiêu cũng cấu thành tội phạm này mà cần căn cứ vào hành vi của người có được tài sản đủ yếu tố cấu thành tội phạm đó hay không?
Ví dụ trong vụ án này, chưa xác định được đối tượng A (là người trộm cắp tài sản) do đó chưa biết có đủ cơ sở để truy cứu TNHS đối tượng này về trộm cắp tài sản hay không (do độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự của họ chưa xác định được). Do đó mặc dù có đủ căn cứ chứng minh B biết rõ tài sản này là do người khác phạm tội mà có thì có xử lý B về “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” hay không?. Vấn đề này hiện này có hai quan điểm chưa thống nhất:
Quan điểm 1: cho rằng để xử lý được B về “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” phải xác định được đối tượng trộm cắp tài sản, biết được các yếu tố cấu thành tội phạm làm phát sinh tài sản đó như người thực hiện hành vi phạm tội là ai, tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự… nếu không biết đầy đủ thông tin này thì không đủ cơ sở để xác định người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có”
Quan điểm 2: cho rằng chỉ cần đủ căn cứ chứng minh ý thức chủ quan của B nhận thức rõ, biết rõ tài sản mình tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có, không cần quan tâm đối tượng A phạm tội gì, tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự như thế nào cũng đủ căn cứ để xử lý B về “Tội tiêu thụ tài sản cho người khác phạm tội mà có”
Theo quan điểm của tác giả, để xử lý hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ cần chứng minh người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là tài sản này do phạm tội mà có, trị giá tài sản chiếm đoạt thỏa mãn trị giá định lượng quy định ở các tội phạm tương ứng thì có thể xử lý được đối với người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” không cần quan tâm đến người chiếm đoạt tài sản trước là ai, tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, có tiền án, tiền sự như thế nào.
– Giả sử trong vụ án này A chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản và tài sản trộm cắp trị giá trên 2 triệu đồng thì B có phải chịu trách nhiệm trách nhiệm hình sự không. Vấn đề này hiện này có hai quan điểm chưa thống nhất.
Quan điểm 1: Vì A chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên A không phạm tội Trộm cắp tài sản, vì nguyên tắc phải có người phạm tội trước mới phát sinh người phạm tội tiêu thụ, vì A không phải chịu TNHS nên cũng không thể xử lý B về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Quan điểm 2: B vẫn phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì A đã trộm cắp tài sản đủ định lượng để khởi tố nhưng vì A chưa đủ tuổi, việc A không không phải chịu TNHS là do các yếu tố liên quan đến nhân thân của A nên B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của mình.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ 2 bởi lẽ cum từ “do người khác phạm tội mà có” được hiểu là tài sản này do một người thực hiện hành vi phạm tội, hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể có được tài sản này, người này sau đó bán tài sản, người mua biết được rằng tài sản này do người khác thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm mà có nhưng vẫn mua thì người đó phạm tội tiêu thụ, mặt khác, tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và trái pháp luật hình sự, bất kỳ hành vi trái pháp luật nào ở mức độ đáng kể thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu không đáng kể thì chỉ bị phạt vi phạm hành chính, trong tội trộm cắp tài sản, việc chiếm đoạt tài sản từ 2 triệu đồng trở lên đã nguy hiểm đáng kể cho xã hội, còn việc A không phải chịu trách nhiệm hình sự là do A chưa đủ tuổi do đó B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản của mình.
3. Kiến nghị
Từ những vướng mắc như đã phân tích ở phần trên. Tác giả xin đưa ra một số kiến nghị về sửa đổi, bổ sung Điều 323 BLHS 2015 như sau:
Thứ nhất: Thay từ “phạm tội” bằng cụm từ “hành vi phạm tội”. Việc sửa đổi này, giúp cơ quan tố tụng dễ dàng xử lý người chứa chấp, tiêu thụ tài sản mà không cần quan tâm đến tuổi, tiền án, tiền sự của người phạm tội có được tài sản. Như vậy Khoản 1, Điều 323 BLHS năm 2015 quy định “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác có hành vi phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”
Thứ hai: Thay từ cụm từ “biết rõ” bằng cụm từ “biết hoặc có cơ sở để biết”. Việc dùng cụm từ “biết rõ” trong điều luật hiện nay chưa phù hợp. Vì “biết rõ” thể hiện việc “biết” ở mức độ cao, mà khi người phạm tội không thừa nhận thì việc chứng minh ý chí chủ quan của người phạm tội là “biết rõ” sẽ rất khó.
Thứ ba: Ban hành Nghị quyết hoặc thông tư liên tịch hướng dẫn về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo hướng “4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
b) Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
c) Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
d) Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)
Trên đây là một số ý kiến khi bàn về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” mong muốn những người quan tâm đến việc nghiên cứu pháp luật hình sự về tội phạm này trao đổi, góp ý về những nội dung nêu trên để làm rõ và sâu sắc hơn về lý luận định tội theo pháp luật hình sự Việt Nam
[1] Khoản 1, Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLL-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011
[2] Khoản 2, Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLL-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011
[3] TS. Nguyễn Đức Mai, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, NXB. Chính trị quốc gia, tr.941
[4] Khoản 1, Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLL-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011
[5] Khoản 4 Điều 2 Nghị quyết này Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền