Một số vấn đề kiểm sát viên cần lưu ý khi xác định việc dân sự và vụ án dân sự về hôn nhân, gia đình
Phạm Thị Mai – Phó Trưởng khoa Kiểm sát dân sự
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS), các tranh chấp về hôn nhân và gia đình và các yêu cầu về hôn nhân và gia đình được quy định tại các điều 28, 29 BLTTDS. Đặc trưng của các tranh chấp về hôn nhân và gia đình là giữa các bên đương sự có sự tranh chấp về quyền và lợi ích phát trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong khi đó, đặc trưng của yêu cầu về hôn nhân và gia đình là các bên đương sự không tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà chỉ yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý về hôn nhân và gia đình.
Để phân biệt việc dân sự về hôn nhân và gia đình với vụ án dân sự về hôn nhân và gia đình, Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề sau:
1. Phân biệt vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình với việc dân sự về hôn nhân và gia đình
1.1. Sự khác nhau giữa vụ án và việc dân sự về hôn nhân, gia đình
1.1.1. Vụ án dân sự về hôn nhân, gia đình
Sự khác nhau cơ bản để phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự là yếu tố có hay không có tranh chấp. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Tranh chấp” là “giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào” hay “đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”…
Qua sự khác nhau cơ bản về yếu tố có hay không có tranh chấp này, chúng ta có thể rút ra cách hiểu chung nhất và các đặc điểm riêng của vụ án hôn nhân và gia đình và việc dân sự về hôn nhân và gia đình như sau:
– Vụ án hôn nhân và gia đình là những tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định thì các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết và đã được Tòa án thụ lý.
Theo quy định tại Điều 28 BLTTDS thì những tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bao gồm: Tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn; Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; Tranh chấp về cấp dưỡng; Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
Những đặc điểm cơ bản của vụ án hôn nhân và gia đình là:
+ Vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp xảy ra giữa các đương sự về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
+ Chủ thể của vụ án hôn nhân và gia đình lựa chọn tiến hành giải quyết tranh chấp giữa họ bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án .
+ Đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
+ Vụ án hôn nhân và gia đình giải quyết tranh chấp về các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Tòa án giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình trên cơ sở quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người có quyền và buộc người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Việc dân sự về hôn nhân, gia đình
Việc dân sự về hôn nhân và gia đình là việc cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận cho mình một hoặc một số quyền pháp lý về hôn nhân và gia đình; công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của mình hoặc của người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS, các yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án gồm có: Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn; Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi; Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình; Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật…
Đặc điểm cơ bản của việc dân sự về hôn nhân và gia đình:
+ Trong việc dân sự về hôn nhân và gia đình, các đương sự không có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ.
+ Người yêu cầu giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình yêu cầu Tòa án công nhận quyền, nghĩa vụ pháp lý; công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ hay của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quan hệ hôn nhân và gia đình;
+ Từ yêu cầu của đương sự và trên cơ sở các quy định của pháp luật, Tòa án sẽ công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý, mà từ sự kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý về hôn nhân và gia đình của những chủ thể nhất định.
1.2. Sự khác biệt trong thủ tục giải quyết vụ án hôn nhân gia đình và việc dân sự về hôn nhân, gia đình
Thủ tục giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình và việc dân sự về hôn nhân và gia đình tương đối khác biệt, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qua . Trong khi đó, đương sự trong việc dân sự về hôn nhân và gia đình bao gồm người yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan[1]. Nếu là vụ án dân sự về hôn nhân và gia đình thì một bên vợ/ chồng là bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, nhưng đối với việc dân sự về hôn nhân và gia đình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ không có các quyền này.
Thứ hai, đối với vụ án hôn nhân và gia đình, về nguyên tắc thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm phải là ba hoặc năm người, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Trong khi đó thành phần giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân như trong vụ án hôn nhân và gia đình. Mặt khác, thành phần giải quyết việc dân sự hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm thông thường chỉ gồm một Thẩm phán (trừ một số trường hợp đặc biệt)[2].
Thứ ba, về sự có mặt của Kiểm sát viên trong phiên toà, phiên họp. Theo quy định tại Điều 21 BLTTDS, Kiểm sát viên tham gia 100% phiên họp giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình, trong khi đó, Kiểm sát viên chỉ tham gia phiên toà đối với đối với những vụ án hôn nhân và gia đình do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp chưa có điều luật để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS.
Thứ tư, theo hệ thống biểu mẫu tố tụng dân sự của TAND tối cao, các mẫu đơn khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình là không giống nhau. Trình tự nhận đơn, xử lý đơn… trong thủ tục giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình và thủ tục giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình cũng có sự khác biệt nhất định.
Thứ năm, thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, thời hạn mở phiên họp đối với giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình được quy định ngắn hơn nhiều so với vụ án hôn nhân và gia đình. Cụ thể, thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu đối với việc dân sự về hôn nhân và gia đình là 01 tháng, trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác[3]. Trong khi đó, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình theo thủ tục thông thường có thể kéo dài tối đa là 6 tháng[4].
Thứ sáu, Tòa án mở phiên tòa để xét xử vụ án hôn nhân và gia đình và mở phiên họp để giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình. Mặt khác, theo Điều 24 BLTTDS, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử chỉ được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung, vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng. Như vậy, trong quá trình xét xử vụ án hôn nhân và gia đình, các bên đương sự có quyền tranh luận, đối đáp với nhau, đấu tranh với nhau bằng các chứng cứ, lý lẽ, lập luận tại phiên tòa, giữa các bên có quyền lợi đối lập nhau nhằm chứng minh những yêu cầu hoặc phản bác của mình đối với bên kia là xác đáng, có cơ sở và đúng pháp luật; ngược lại những yêu cầu hoặc phản bác của bên kia là không có căn cứ và không đúng pháp luật. Trong khi đó, thủ tục giải quyết việc dân sự về hôn nhân và gia đình, các bên đương sự chỉ trình bày ý kiến của mình liên quan đến việc dân sự về hôn nhân và gia đình mà không có thủ tục tranh luận, đối đáp giữa các bên.
Thứ bảy, trong vụ án hôn nhân và gia đình tồn tại các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Ngược lại, đối với việc dân sự về hôn nhân và gia đình, hiện nay BLTTDS mới chỉ có quy định về thủ tục phúc thẩm giải quyết việc dân sự mà không đề cập đến thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định giải quyết việc dân sự.
1.3. Phân biệt vụ án hôn nhân, gia đình và việc dân sự về hôn nhân gia đình trong một số trường hợp cụ thể
– Trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được hiểu là mối quan hệ hôn nhân của vợ chồng vẫn đang tồn tại. Giữa họ không có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn mà chỉ yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng xuất phát từ nhu cầu chính đáng của họ như để thực hiện nghĩa vụ về tài sản riêng hoặc để thuận tiện cho các giao dịch riêng về tài sản. Do vậy, nếu không thỏa thuận phân chia được thì trường hợp này pháp luật quy định là có tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và cũng là loại vụ án về hôn nhân và gia đình[5].
Trường hợp vợ chồng không có sự tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng mà đã tự nguyện, thống nhất phân chia bằng văn bản và có yêu cầu Tòa án công nhận sự phân chia của họ thì Tòa án không thụ lý vì không phải vụ án hôn nhân và gia đình quy định ở Điều 28 BLTTDS và cũng không phải việc hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 29 BLTTDS. Trường hợp này, Toà án phải hướng dẫn đương sự để họ liên hệ với cơ quan công chứng hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền để xác nhận.
Trường hợp tranh chấp về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nếu sau này có thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung thì được giải quyết theo trình tự việc hôn nhân và gia đình[6].
– Trường hợp có yêu cầu về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn: Đây là trường hợp mà trước khi đương sự khởi kiện giữa họ đã chấm dứt quan hệ vợ chồng và đã giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Do thay đổi tình hình của một trong hai bên mà nếu không thay đổi việc nuôi con thì có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của người con và giữa họ không thống nhất được việc thay đổi nuôi con thì họ có quyền xin thay đổi việc nuôi con. Trường hợp này có sự tranh chấp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án[7]. Nếu có sự thỏa thuận và chỉ yêu cầu công nhân sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con thì là việc hôn nhân và gia đình, không phải vụ án hôn nhân và gia đình[8].
– Trường hợp yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ: Trường hợp có tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ bao gồm cả yêu cầu không thừa nhận người nào đó là con, là cha, là mẹ của họ hoặc xin được xác định mình là cha, là mẹ, là con của một người nào đó thì phải xác định là vụ án hôn nhân và gia đình[9]. Đối với trường hợp yêu cầu xác định việc xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ, các bên đương sự không có tranh chấp mà tự nguyện thỏa thuận thì thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân theo pháp luật về hộ tịch mà không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trường hợp chủ thể được yêu cầu xác định là cha, là mẹ, là con đã chết không có tranh chấp nhưng cũng không có thỏa thuận thì được giải quyết theo thủ tục việc dân sự[10].
– Trường hợp có yêu cầu giải quyết việc nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật: Hủy kết hôn trái pháp luật là một yêu cầu về hôn nhân và gia đình, được giải quyết theo trình tự việc dân sự[11]. Tuy nhiên, nếu cùng với việc xin hủy kết hôn trái pháp luật mà các bên có tranh chấp về việc nuôi con chung hoặc chia tài sản thì phải giải quyết theo thủ tục vụ án hôn nhân và gia đình[12].
– Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được công nhận quan hệ hôn nhân nhưng nếu có tranh chấp về chia tài sản chung, nuôi con chung thì thuộc trường hợp vụ án hôn nhân và gia đình.
2. Vấn đề chuyển việc dân sự về hôn nhân và gia đình thành vụ án hôn nhân và gia đình
2.1. Chuyển việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thành vụ án ly hôn
Yêu cầu “Công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” là một yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS. Yêu cầu này được thụ lý để giải quyết theo trình tự việc dân sự khi cả hai vợ chồng cùng có đơn hoặc cùng ký vào đơn có nội dung yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản chung. Sau khi Tòa án đã thụ lý yêu cầu của vợ chồng theo trình tự việc dân sự, có thể xảy ra tình huống là một trong hai bên hoặc cả hai bên có sự thay đổi yêu cầu. Trong trường hợp một trong các bên hoặc cả hai bên thay đổi yêu cầu mà hai bên đạt được thỏa thuận mới, kể cả thỏa thuận chưa yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản, thì Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết theo thủ tục việc dân sự (Toà án ra Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn).
Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, hoặc việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Khi chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn sang thủ tục giải quyết vụ án, Tòa án không phải thông báo việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án[13].
Đối với yêu cầu về con chung, chỉ được coi là việc dân sự nếu vợ chồng thoà thuận được với nhau về tất cả các vấn đề liên quan đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như: người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn; người, mức cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn; việc thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Do vậy, nếu các bên chỉ cần không thỏa thuận được với nhau về một trong các nội dung này thì Toà án phải chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Đối với yêu cầu về tài sản, chỉ được coi là việc dân sự nếu vợ chồng thoả thuận với nhau được tất cả các vấn đề có liên quan đến tài sản của vợ chồng như: việc xác định tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, của chồng; việc xác định giá trị của tài sản chung; việc phân chia tài sản chung, nợ chung của vợ chồng. Trường hợp các bên chỉ cần không thoả thuận được với nhau về một trong các nội dung này thì Toà án cũng phải chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận được với nhau về tất cả các quan hệ về hôn nhân, nuôi con, tài sản nhưng một bên không có mặt để tiến hành hòa giải thì không đủ cơ sở để Toà án ra quyết định “Công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con,chia tài sản khi ly hôn” theo trình tự quy định tại Điều 397, Điều 212 BLTTDS. Như vậy, trường hợp không hòa giải được thì Toà án cũng phải chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang thủ tục vụ án dân sự.
Ngoài ra, Kiểm sát viên cần lưu ý, trong các vụ án ly hôn điển hình, các đương sự thường có yêu cầu Toà án giải quyết đồng thời cả ba mối quan hệ: ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn. Tuy nhiên, chỉ cần các bên có tranh chấp đối với một trong ba quan hệ nêu trên thì cũng phải xác định là vụ án hôn nhân và gia đình.
2.2. Chuyển việc yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật thành vụ án ly hôn
Yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật là một yêu cầu hôn nhân và gia đình được giải quyết theo thủ tục việc dân sự[14]. Tuy nhiên, sau khi Toà án đã thụ lý việc dân sự về yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, có những trường hợp do đương sự thay đổi ý kiến dẫn đến Toà án không thể tiếp tục giải quyết theo trình tự việc dân sự mà phải chuyển sang giải quyết theo trình tự vụ án dân sự. Cụ thể là một số trường hợp sau:
– Trường hợp có đương sự yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, có đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án ly hôn, vì khi thụ lý thì Tòa án chưa thể khẳng định yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật có căn cứ hay không. Trong quá trình giải quyết, nếu có đủ cơ sở hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án căn cứ khoản 7 Điều 28 BLTTDS xác định lại quan hệ pháp luật có tranh chấp là tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi hủy kết hôn trái pháp luật để hủy kết hôn trái pháp luật và giải quyết tranh chấp về nuôi con, chia tài sản.
Trường hợp trong quá trình Toà án giải quyết, nếu hai bên đã đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp này, Tòa án giải quyết vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình[15].
– Đương sự bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp về nuôi con chung hoặc tranh chấp về chia tài sản đồng thời với việc giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật hoặc đồng thời với việc ly hôn (trường hợp đến thời điểm giải quyết thì hôn nhân đã đủ điều kiện hợp pháp).
Trong các trường hợp này, Tòa án cũng phải đình chỉ giải quyết việc dân sự về yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật và thụ lý vụ án dân sự về hôn nhân và gia đình.
Trong quá trình kiểm sát việc gải quyết các vụ, việc dân sự về hôn nhân gia đình, Kiểm sát viên cần nắm vững các đặc điểm phân biệt việc dân sự về hôn nhân gia đình với vụ án dân sự về hôn nhân gia đình và việc chuyển việc dân sự về hôn nhân gia đình, thành vụ án dân sự về hôn nhân gia đình nêu trên để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ, quyền hạn của mình./.
[1] Xem Điều 68 Bộ luật TTDS năm 2015;
[2] Điều 53 Bộ luật TTDS năm 2015.
[3] Khoản 1 Điều 366 BLTTDS.
[4] Khoản 1 Điều 203 BLTTDS.
[5] Khoản 2 Điều 28 BLTTDS.
[6] Khoản 7 Điều 29 BLTTDS.
[7] Khoản 3 Điều 28 BLTTDS.
[8] Khoản 5 Điều 29 BLTTDS.
[9] Khoản 4 Điều 28 BLTTDS.
[10] Khoản 10 Điều 29 BLTTDS.
[11] Khoản 1 Điều 29 BLTTDS.
[12] Khoản 7 Điều 28 BLTTDS.
[13] Khoản 5 Điều 397 BLTTDS.
[14] Khoản 1 Điếu 29 BLTTDS.
[15] Xem mục 10 Phần IV Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TAND tối cao về một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự.