Quyền tự do kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam qua các thời kỳ
ThS. Nguyễn Thị Miến – Nguyễn Minh Đức
Giảng viên Khoa DS, HC và KS hoạt động tư pháp
Quyền kết hôn là quyền tự nhiên của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nhà nước ta có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng; vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình.
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Quyền tự do kết hôn thể hiện trong những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, cụ thể như sau:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hỏa thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ. Theo quy định tại các điều 4, 5, 6, 8, 9, 10 Luật Hôn nhân và gia đình 1959 thì điều kiện kết hôn được quy định cụ thể như sau:
+ Con trai và con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
+ Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác.
+ Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn.
+ Đàn bà goá có quyền tái giá; khi tái giá, quyền lợi của người đàn bà goá về con cái và tài sản được bảo đảm.
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục khẳng định Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ. Điều kiện kết hôn được quy định tại các điều 5, 6, 8:
+ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.
+ Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
+ Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành và tiếp tục khẳng định một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
+ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên.
+ Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
+ Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
Theo Điều 11, mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý; nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng; vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ tiếp tục được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Điều 8 quy định nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện:
+ Điều kiện về độ tuổi: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành như sau: nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh. Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau: Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh; nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.
+ Điều kiện về sự tự nguyện: Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của họ.
+ Điều kiện về năng lực hành vi dân sự: Cả nam và nữ không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Theo đó, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, nam từ đủ 20 tuổi trở lên không bị mất năng lực hành vi dân sự và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn, được tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình. Đây là những quy định bắt buộc người kết hôn phải tuân thủ. Bằng các quy định về điều kiện kết hôn, quyền tự lựa chọn và quyết định kết hôn của cá nhân được pháp luật bảo vệ.
Việc xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý. Như vậy, quyền kết hôn là quyền tự do của mỗi cá nhân nhưng phải tuân thủ các điều kiện kết hôn. Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nghiêm cấm hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn. Theo Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp thì việc lừa dối kết hôn là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
Như vậy, Nhà nước ta có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc. Nội dung này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”./.