Quy định pháp luật liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Lực lượng Cảnh sát biển
Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng
CN. Lương Thị Hiền
CN. Đinh Văn Hoàng
Phân hiệu ĐHKS tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Trên cơ sở hệ thống hóa các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Cảnh sát biển và các văn bản hướng dẫn thi hành, bài viết làm rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc nguồn tin về tội phạm. Đồng thời, chỉ ra những đặc thù trong nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát biển, nhất là trong việc phát hiện, tiếp nhận, xác minh nguồn tin về tội phạm trong xảy ra trong vùng biển Việt Nam.
1. Thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển
Qua nghiên cứu quy định Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021, 2025) (gọi tắt là BLTTHS), Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, Luật Cảnh sát biển năm 2018, Nghị định 61/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật Cảnh sát biển Việt Nam cũng đã có những quy định về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển.
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển là một trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra[1], các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển, Cục Nghiệp vụ và pháp luật, Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy, Hải đoàn, Hải đội, Đội nghiệp vụ[2], mặc dù Luật tổ chức CQĐT hình sự 2025 chưa có hiệu lực, tuy nhiên BLTTHS đã bổ sung thêm Đoàn trưởng, Phó Đoàn trưởng Đoàn Trinh sát là người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển, vì vậy có thể hiểu Đoàn trinh sát đã được bổ sung vào cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan này thực hiện quyền năng của mình thông qua người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển bao gồm: Tư lệnh, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển; Tư lệnh vùng, Phó Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn trưởng, Phó Đoàn trưởng Đoàn Trinh sát; Đoàn trưởng, Phó Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy; Hải đoàn trưởng, Phó Hải đoàn trưởng; Hải đội trưởng, Phó Hải đội trưởng; Đội trưởng, Phó Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển[3]. Cơ quan này có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS, Điều 10 và Điều 35 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015.
Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015, Nghị định 61/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2019 quy định hệ thống tổ chức và phạm vi hoạt động của cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển, theo đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển: Tư lệnh, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam là cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm cao nhất của Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển giao Cục Nghiệp vụ và Pháp luật phân công các Phòng nghiệp vụ (các Phòng: Hướng dẫn điều tra xử lý; Phòng chống tội phạm ma túy; Phòng chống tội phạm vi phạm) thực hiện việc tiếp nhận, đăng ký vào sổ theo dõi tiếp nhận, phân loại nguồn tin về tội phạm và sổ theo dõi phân công, kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm khi cơ quan, tổ chức, cá nhân đến cơ quan Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tố giác, báo tin hoặc qua bưu chính, điện thoại, phương tiện thông tin đại chúng…; đăng ký các vụ án do Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và Pháp luật, Tư lệnh Cảnh sát biển ra quyết định khởi tố; Cục Nghiệp vụ và Pháp luật: Cục trưởng, Phó Cục trưởng là cơ quan nghiệp vụ pháp luật có chức năng tham mưu, đề xuất Tư lệnh, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển về công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm trong toàn lực lượng, trực tiếp tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của pháp luật; Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Vùng 1, 2, 3, 4: Tư lệnh vùng, Phó Tư lệnh Pháp luật Cảnh sát biển vùng 1, 2, 3, 4 sẽ tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc địa bàn, vùng biển được giao; Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển phân công các Phòng nghiệp vụ Phòng pháp luật, Phòng chống tội phạm vi phạm và các Đội trực thuộc thực hiện việc tiếp nhận, đăng ký vào sổ theo dõi tiếp nhận, phân loại nguồn tin về tội phạm và sổ theo dõi phân công, kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm khi cá nhân, tổ chức đến đơn vị tố giác, báo tin hoặc qua bưu chính, điện thoại, phương tiện thông tin đại chúng…; đăng ký các vụ việc do đơn vị ra quyết định khởi tố (trực tiếp phát hiện, bắt giữ thông qua hoạt động nghiệp vụ hoặc các vụ việc tiếp nhận bàn giao trong và ngoài lực lượng mà đơn vị ra quyết định khởi tố); Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy 1, 2, 3, 4: Đoàn trưởng, Phó Đoàn trưởng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm về ma túy thuộc địa bàn được giao do Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quy định dọc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển, Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy phân công các Đội trực thuộc thực hiện việc tiếp nhận, đăng ký vào sổ theo dõi tiếp nhận, phân loại nguồn tin về tội phạm và sổ theo dõi phân công, kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm khi cá nhân, tổ chức đến đơn vị tố giác, báo tin hoặc qua bưu chính, điện thoại, phương tiện thông tin đại chúng…; đăng ký các vụ việc do đơn vị ra quyết định khởi tố (trực tiếp phát hiện, bắt giữ thông qua hoạt động nghiệp vụ hoặc các vụ việc tiếp nhận bàn giao trong và ngoài lực lượng mà đơn vị ra quyết định khởi tố) ; 04 Hải đoàn Cảnh sát biển: Hải đoàn trưởng, Phó Hải đoàn Pháp luật tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc địa bàn, vùng biển được giao do Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quy định; 08 Hải đội thuộc Hải đoàn Cảnh sát biển: Hải đội trưởng, Phó Hải đội trưởng được giao nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc địa bàn, vùng biển được giao do Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quy định; 06 Hải đội Cảnh sát biển thuộc Bộ Tư lệnh các Vùng Cảnh sát biển: Hải đội trưởng, Phó Hải đội trưởng được giao nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc địa bàn, vùng biển được giao do Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quy định; 08 Đội nghiệp vụ thuộc Phòng Pháp luật thuộc Bộ tư lệch Vùng Cảnh sát biển: Đội trưởng, Phó Đội trưởng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc địa bàn, vùng biển được giao do Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quy định. Đối với Đoàn Trinh sát thực hiện tiếp nhận, đăng ký vào sổ theo dõi tiếp nhận, phân loại nguồn tin về tội phạm từ cá nhân, tổ chức trực tiếp đến đơn vị tố giác, báo tin về tội phạm. Ngay sau khi tiếp nhận, đăng ký báo cáo ngay Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển để chỉ đạo, xử lý theo quy định. Hệ thống tổ chức Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển được tổ chức tương ứng với hệ thống tổ chức của Cảnh sát biển Việt Nam từ Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đến các Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển (Hải đoàn, Hải đội và Đội nghiệp vụ) và Đoàn Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy. Do đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo về thực hiện nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Cảnh sát biển được đảm bảo thống nhất và theo nguyên tắc Tư lệnh Cảnh sát biển là người lãnh đạo, chỉ đạo cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển; cơ quan cấp dưới phải chấp hành và phục tùng sự chỉ đạo của cấp trên; cơ quan nghiệp vụ cấp trên (Cục Nghiệp vụ và Pháp luật thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển) có nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn các đơn vị trong hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự trong toàn lực lượng
Khi giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển có quyền tiến hành các hoạt động: Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm tử thi; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.Trên cơ sở chứng cứ, tài liệu đã được thu thập, kiểm tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển phải kịp thời ban hành một trong các quyết định trên để giải quyết nguồn tin về tội phạm, bao gồm: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự (trong trường hợp quy định tại Điều 164 của BLTTHS); Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn).
Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định cho cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển được áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, bắt người phạm tội quả tang, bắt người tự thú, đầu thú… và các thủ tục khác mà cơ quan này phải thực hiện với vai trò là chủ thể có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm như: gửi văn bản, quyết định tố tụng cho Viện kiểm sát (VKS) có thẩm quyền xem xét phê chuẩn, kiểm sát; thông báo về việc không khởi tố vụ án hình sự, gửi các quyết định tố tụng cho VKS có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.…
2. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm cũng thực hiện quy trình giải quyết tương tự hệ thống Cơ quan điều tra (CQĐT) nhằm đảm bảo tất cả các tố giác, tin báo được tiếp nhận đều được giải quyết đúng thẩm quyền, có căn cứ và hợp pháp. Có thể chi tiết hóa qua các bước cụ thể gồm: Tiếp nhận; phân loại; kiểm tra, xác minh; ra quyết định giải quyết và thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm. Vì vậy, nội dung hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKS cũng được cụ thể phù hợp với quá trình khi cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển thực hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển
Thông qua quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong THQCT tại Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014 (sửa đổi), Điều 159 BLTTHS, kết hợp với TTLT số 01/2017 và quy định khác trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn THQCT ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, VKS thực hiện chức năng THQCT thông qua ba quyền năng cơ bản là: Quyền yêu cầu, quyền phê chuẩn và quyền hủy bỏ quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, VKS phải chủ động nắm bắt đầy đủ các nguồn tin về tội phạm và bảo đảm mọi nguồn tin phải được cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển tiếp nhận, thụ lý đầy đủ theo luật định. Sau khi tiếp nhận nguồn tin, Tư lệnh Cảnh sát biển, Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật, Đoàn trưởng Đoàn trinh sát, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy, Hải đoàn trưởng, Hải đội trưởng và Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển phải phân công Cán bộ điều tra chịu trách nhiệm xác minh làm rõ diễn biến của vụ việc để xử lý theo đúng yêu cầu của Điều 147 BLTTHS.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKS căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại điểm e khoản 1 Điều 42 và khoản 2 Điều 159 BLTTHS chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền đang giải quyết nguồn tin thực hiện. Nội dung yêu cầu kiểm tra, xác minh nhằm kiểm tra tính xác thực của nguồn tin về tội phạm; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Kết quả điều tra sơ bộ đã có cơ sở khẳng định hành vi có dấu hiệu của tội phạm cụ thể mà cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển chậm trễ trong việc ra quyết định khởi tố vụ án, thì VKS yêu cầu ra quyết định khởi tố vụ án nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động điều tra tiếp theo.
Theo quy định của BLTTHS thì trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn của VKS chỉ áp dụng đối với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (khoản 6 Điều 110), gia hạn tạm giữ (khoản 2 Điều 118), lệnh khám xét (khoản 1 Điều 193), vì vậy khi THQCT, VKS phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh, quyết định này của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển.
Quá trình thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, ngoài việc yêu cầu, phê chuẩn các quyết định của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển, VKS có thể thực hiện quyền hủy bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của cơ quan này đối với những quyết định sau: Quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, khi THQCT trong giải quyết nguồn tin về tội phạm, pháp luật cũng trao cho VKS thẩm quyền trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển
Tuỳ theo từng vụ việc mà cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển tiếp nhận, giải quyết; thời điểm, hoàn cảnh pháp lý cũng như tính đúng đắn và cần thiết của các hoạt động điều tra, xác minh mà cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển thực hiện để VKS xem xét, quyết định vận dụng thẩm quyền nào trong các quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giải quyết nguồn tin đảm bảo cho các hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền được khách quan, toàn diện, chính xác, hướng đến làm sáng tỏ sự thật của vụ án và xử lý đúng pháp luật.
Kiểm sát việc tiếp nhận nguồn tin:
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển có trách nhiệm và thẩm quyền tiếp nhận đối với các tố giác, tin báo về tội phạm xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc lĩnh vực mình quản lý, do vậy, để đảm bảo tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, VKS có thẩm quyền phải kiểm sát việc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển lập biên bản tiếp nhận (theo mẫu) và ghi vào sổ tiếp nhận đơn vị đối với trường hợp cá nhân trực tiếp đến tố giác, báo tin về tội phạm. Biên bản tiếp nhận phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố giác, báo tin và hướng dẫn họ viết đơn trình báo (có thể ghi âm, ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận khi thấy cần thiết). Nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì vẫn phải tiến hành tiếp nhận theo trình tự, thủ tục và ghi rõ lý do từ chối vào biên bản.
Kiểm sát việc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển tiếp nhận đơn, thư qua dịch vụ bưu chính viễn thông, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin đại chúng, hòm thư điện tử, báo nói, báo hình và mạng xã hội,… thì ghi vào sổ tiếp nhận và sử dụng các phương pháp có thể cần thiết để trích xuất thông tin (in, sao chụp, ghi chép,…) làm căn cứ cho việc phân loại và kiểm tra, xác minh nguồn tin.
Kiểm sát việc phân loại nguồn tin:
Theo quy định của BLTTHS, sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển phải nghiên cứu, đánh giá nội dung của tố giác, tin báo để phân loại nguồn tin đã tiếp nhận
* Kiểm sát việc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển chuyển nguồn tin kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết theo luật định trong trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm không thuộc thẩm giải quyết của họ.
* Kiểm sát việc tiến hành thụ lý, phân công Cán bộ điều tra thực hiện việc kiểm tra, xác minh nguồn tin để xác định hành vi có dấu hiệu của tội phạm hay không nhằm tạo căn cứ cho việc ra quyết định giải quyết nguồn tin theo quy định tại Điều 147 BLTTHS trong trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của họ.
Kiểm sát hoạt động kiểm tra, xác minh, làm rõ nguồn tin:
VKS tiến hành kiểm sát chặt chẽ quá trình khi cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển kiểm tra, xác minh các yếu tố liên quan đến nhân thân, lai lịch của đối tượng; tìm kiếm, thu thập các chứng cứ, tài liệu, dữ liệu điện tử có ý nghĩa chứng minh; việc trưng cầu giám định, yêu cầu định giá đối với các dấu vết, tài liệu, đồ vật và tài sản liên quan đến nguồn tin.
Kiểm sát bảo đảm cho quá trình kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm luôn tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về thời hạn giải quyết nguồn tin; kiểm sát tính có căn cứ đối với trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin, phục hồi giải quyết nguồn tin khi căn cứ tạm đình chỉ không còn.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, nếu cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển chậm trễ trong việc ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì VKS yêu cầu thực hiện việc khởi tố vụ án và tiến hành các hoạt động tiếp theo.
Kiểm sát việc ban hành quyết định giải quyết nguồn tin:
Từ kết quả kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển xác định nếu có đủ căn cứ để xác định hành vi đã thực hiện có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định của các điều 147, 153, 154 và tiến hành những hoạt động tố tụng theo quy định của Điều 164 và những quy định liên quan; nếu có căn cứ xác định hành vi không có dấu hiệu tội phạm thì ban hành quyết định không khởi tố vụ án hình sự và kết thúc quá trình giải quyết nguồn tin theo quy định của Điều 158 BLTTHS.
3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển
* Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển:
Theo quy định của BLTTHS, phạm vi THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKS đối với hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển bắt đầu từ khi cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển tiếp nhận, giải quyết vụ việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền của mình cho đến khi vụ việc được giải quyết bằng quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự hoặc chuyển cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết.
* Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển:
Theo quy định của pháp luật, “Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình”[4]. Như vậy, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển được xác định dựa vào thẩm quyền khởi tố điều tra của cơ quan này. Vì vậy, căn cứ vào từng tội phạm cụ thể, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển có thể chuyển cho CQĐT có thẩm quyền hoặc trực tiếp giải quyết, trong trường hợp cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thì VKS có trách nhiệm THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm đối với cơ quan này. Việc xác định phạm vi thẩm quyền của VKS trong từng trường hợp dựa vào các căn cứ cụ thể sau:
Một là, căn cứ vào phạm vi hoạt động, địa bàn quản lý của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển trãi dài trên các vùng biển, thềm lục địa của Việt Nam để xác định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nào có thẩm quyền giải quyết nguồn tin. Căn cứ vào phạm vi, khu vực, lĩnh vực hoạt động, khi phát hiện, tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm sẽ xác định thẩm quyền THQCT và kiểm sát của VKS khu vực, VKS tỉnh, các VKS quân sự quân khu, VKS quân sự khu vực tương ứng với nơi cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển đã phát hiện, tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền.
Hai là, khác với thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra, BLTTHS sửa đổi, bổ sung năm 2025 đã thay đổi về thẩm quyền điều tra so với BLTTHS 2015, theo đó, “CQĐT cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, TAND khu vực, CQĐT quân sự khu vực điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực; CQĐT quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp khu vực nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra”[5]. Đối với hệ thống CQĐT không có sự phân cấp điều tra theo tính chất vụ việc mà CQĐT cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra đối với tất cả các loại tội phạm và Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh có thể phân công, ủy quyền cho Điều tra viên trung cấp, Điều tra viên cao cấp là Trưởng Công an cấp xã hoặc Phó Trưởng Công an cấp xã được tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn cấp xã và theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 145 thì CQĐT giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình. Đối với cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có sự phân cấp thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm, theo đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Cục Nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy; Hải đoàn; Hải đội; Đội nghiệp vụ, Đoàn trinh sát được tiếp nhận, xử lý tất cả các nguồn tin với tính chất từ ít nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng về các tội phạm quy định tại Chương XIII và các Điều 188, 189, 227, 235, 236, 237, 242, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 272, 273, 282, 284, 303, 304, 305, 309, 311, 346, 347 và 348 của BLHS xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc lĩnh vực mình quản lý và được phép tiến hành các hoạt động xác minh, làm rõ để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, tiến hành một số hoạt động điều tra và chuyển vụ án cho VKS có thẩm quyền để truy tố hoặc chuyển cho CQĐT có thẩm quyền để tiếp tục điều tra[6].
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển tiếp nhận, xử lý thì BLTTHS chưa quy định về phân cấp theo tính chất vụ việc và vì không có sự phân cấp rõ ràng về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nên thẩm quyền THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển cũng chưa cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, thẩm quyền THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển được thực hiện căn cứ vào Thông tư 02/2025/TT-VKSTC ngày 30/6/2025 quy định về thẩm quyền của VKSND các cấp trong THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ việc, vụ án hình sự (gọi tắt là TT số 02/2025) và các văn bản hướng dẫn, các quy chế phối hợp được ký kết giữa các cơ quan có liên quan. Theo đó, VKSND tối cao có thẩm quyền THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra đối với vụ việc, vụ án hình sự do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền ở cấp Trung ương thụ lý, giải quyết hoặc đối với các vụ việc, vụ án khác khi xét thấy cần thiết. VKSND cấp tỉnh có thẩm quyền THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra đối với vụ việc, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thụ lý, giải quyết và thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh. VKSND khu vực THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố đối với vụ việc, vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thụ lý, giải quyết và thuộc thẩm quyền xét xử của TAND khu vực. Như vậy, VKSND tối cao có thẩm quyền THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin do Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Cục nghiệp vụ và pháp luật (Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền ở cấp Trung ương thụ lý, giải quyết) tiếp nhận, giải quyết (có thể là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trong). VKSND tỉnh có thẩm quyền THQCT, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm do Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Cục Nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy; Hải đoàn; Hải đội; Đội nghiệp vụ, Đoàn trinh sát thụ lý, giải quyết đối với vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh. VKSND khu vực có thẩm quyền THQCT, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm do Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Cục Nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy; Hải đoàn; Hải đội; Đội nghiệp vụ, Đoàn trinh sát thụ lý, giải quyết đối với vụ việc, vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng thuộc thẩm quyền xét xử của TAND khu vực.
Ba là, căn cứ vào địa điểm, nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm. Nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm cụ thể cũng là cơ sở cho việc xác định thẩm quyền giải quyết của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát biển. Trường hợp tố giác, tin báo được thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau thì thẩm quyền được xác định tại nơi vụ việc được phát hiện. Khi các cơ quan này tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm thì trách nhiệm THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết đó sẽ thuộc về VKS (cấp tỉnh hoặc VKS khu vực) nơi xảy ra hoặc nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm trên (trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của VKS quân sự).
Bốn là, căn cứ vào đối tượng bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố. Đa phần các nguồn tin về tội phạm được tiếp nhận, giải quyết sẽ được VKSND các cấp THQCT, kiểm sát hoạt động hoạt động tiếp nhận, xác minh làm rõ và giải quyết. Tuy nhiên, trong trường hợp đối tượng bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối hợp Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân hoặc tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến bí mật quân sự, hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các đối tượng trên thì thẩm quyền THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin thuộc thẩm quyền của VKS quân sự các cấp, có thể là VKS quân sự khu vực hoặc VKS quân sự quân khu hoặc tương đương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Quốc hội (2015, 2017, 2025), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025);
- Quốc hội (2015, 2021, 2025), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021, 2025);
- Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015;
- Quốc hội (2014, 2025), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;
- Quốc hội (2003), Luật Biên giới Quốc gia năm 2003;
- Quốc hội (2018), Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018;
- Chính phủ (2019), Nghị định số 61/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam;
- Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
- Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2021), Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 11 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 01/2017;
[1] Xem khoản 1, Điều 35 BLTTHS; Điều 35 Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015;
[2] Xem khoản 4, Điều 9 Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015;
[3] Xem điểm d khoản 1 Điều 35 BLTTHS;
[4] Điểm b khoản 2 Điều 145 năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017 năm 2025)
[5] Khoản 6, Điều 163 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017 năm 2025)
[6] Xem khoản 1 Điều 35 Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015.