Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ Luật Hình sự hiện hành

                                                                  Đinh Văn Hoàng
Giảng viên Khoa Hình sự, Phân hiệu Trường ĐHKS tại Tp. HCM

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018, sau hơn 07 năm thi hành vẫn còn một số vướng mắc, bất cập do tình hình kinh tế – xã hội thay đổi và diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm. Do đó, tại kỳ họp thứ 9 ngày 26/6/2025, Quốc hội khoá XV đã chính thức thông qua Luật số 86/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Trong các quy định mới có nội dung quan trọng như bỏ hình phạt tử hình đối với 08 tội danh, tăng mức phạt tiền đối với một số tội phạm… đặc biệt là bổ sung quy định về Tội sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 256a. Đây là điểm mới quan trọng cần phải chú ý vì giai đoạn từ 2015 cho đến trước khi luật mới có hiệu lực, hành vi sử dụng chất ma túy chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc bổ sung tội danh này phản ánh sự thay đổi trong chính sách hình sự của Nhà nước liên quan đến việc xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến ma túy nhằm tăng cường răn đe, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội và quản lý người nghiện, người sử dụng ma túy sau cai nghiện.

Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm của Tội sử dụng trái phép chất ma tuý được quy định tại Điều 256a BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025) nhằm tạo cách hiểu thống nhất cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tội danh này.

  1. Khách thể của Tội sử dụng trái phép chất ma túy

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại[1]. Tương tự như các tội phạm khác được quy định tại Chương XX – Các tội phạm về ma tuý, khách thể của Tội sử dụng trái phép chất ma túy là chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy và những tác động tiêu cực của ma tuý đến sức khỏe của con người. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý năm 2021, chất ma tuý là “chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh mục chất ma tuý do Chính phủ ban hành”. Văn bản này cũng đưa ra định nghĩa, chất gây nghiện được hiểu là “chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng”[2], và chất hướng thần là “chất kích thích hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng”[3]. Nhằm cụ thể hoá các nội dung và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết vụ án liên quan đến chất ma tuý, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/8/2022 quy định cụ thể danh mục chất ma tuý và tiền chất. Tại Điều 1 Nghị định 57/2022/NĐ-CP quy định 04 Danh mục các chất ma tuý và tiền chất bao gồm: Các chất ma tuý tuyệt đối cấm sử dụng, các chất ma tuý hạn chế sử dụng, các chất ma túy được dùng trong nghiên cứu, kiểm nghiệm, giám định, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế, thú y theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, và danh mục tiền chất ma tuý.

Có thể thấy rằng với những quy định cụ thể này, Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện chính sách kiểm soát nghiêm ngặt đối với các hoạt động liên quan đến ma túy, từ sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán đến sử dụng các chất ma túy, các tiền chất sử dụng để sản xuất trái phép chất ma túy, cũng như các phương tiện và công cụ dùng để sản xuất và sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy, mọi hành vi sử dụng ma túy ngoài mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học theo đúng quy định của cơ quan y tế có thẩm quyền đều là bất hợp pháp và xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này.

Ngoài những tác động liên quan đến chính sách quản lý của Nhà nước, ma tuý còn gây ra ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Việc sử dụng ma túy gây ra những tác hại khôn lường về thể chất và tinh thần cho người sử dụng, làm suy giảm hoặc mất khả năng lao động, học tập, và là nguyên nhân dẫn đến nhiều bệnh tật nguy hiểm khác như HIV/AIDS… Do đó, hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý xâm hại trực tiếp đến quyền được bảo vệ sức khỏe của chính người thực hiện hành vi và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

  1. Mặt khách quan của Tội sử dụng trái phép chất ma túy

Mặt khách quan của Tội sử dụng trái phép chất ma tuý thể hiện ở hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, cũng như các yếu tố khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm phạm tội… Tất cả các tội phạm về ma tuý đều có cấu thành tội phạm hình thức, do đó mặt khách quan của các tội phạm về ma tuý thể hiện ở hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các tội này được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được quy định trong luật. Hành vi khách quan được xác định là yếu tố cơ bản giúp phân biệt giữa Tội sử dụng trái phép chất ma tuý với các tội phạm cùng chương.

Hành vi khách quan của Tội sử dụng trái phép chất ma tuý được thể hiện dưới dạng hành động. Người phạm tội có hành vi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể mình một cách trái phép thông qua một hoặc nhiều hình thức như tiêm, chích, hút, hít, uống…. Đây là hành vi trái pháp luật, đi ngược lại các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy. Hậu quả của tội phạm và các dấu hiệu khác thuộc mặt chủ quan như công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian, hoàn cảnh, thủ đoạn phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội.

Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, người thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý đều bị xem là tội phạm. Nhà làm luật đã quy định các “điều kiện cần” về mặt khách quan để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhắm vào các đối tượng đã được giáo dục, cho cơ hội sửa chữa nhưng vẫn vi phạm. Cụ thể, hành vi khách quan được thể hiện qua các trường hợp sau:

Một là, người sử dụng trái phép chất ma tuý khi đang trong thời hạn cai nghiện hoặc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế. Theo quy định tại Điều 28 Luật Phòng, chống ma túy, có 02 biện pháp cai nghiện ma túy được áp dụng đó là cai nghiện ma túy tự nguyện và cai nghiện ma túy bắt buộc. Đối với trường hợp cai nghiện ma tuý bắt buộc, người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp cai nghiện ma tuý tự nguyện, người nghiện ma tuý thực hiện cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng với sự hỗ trợ chuyên môn của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy, sự phối hợp, trợ giúp của gia đình, cộng đồng và chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã. Đối với từng trường hợp, thời hạn cai nghiện ma túy có sự khác nhau. Đối với trường hợp cai nghiện ma tuý tự nguyện, thời hạn được xác định là từ 6 – 12 tháng (khoản 1, Điều 31 Luật Phòng, chống ma túy), tính từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra Quyết định cai nghiện tự nguyện. Trong khi đó, thời hạn cai nghiện ma túy bắt buộc được xác định là từ 12 – 24 tháng (khoản 2, Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính), tính từ ngày Toà án nhân dân khu vực ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như vậy, nếu trong thời hạn này mà người đang cai nghiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với trường hợp người nghiện ma tuý đang trong thời gian điều trị nghiện bằng thuốc thay thế. Đây là biện pháp can thiệp giảm tác hại đối với người sử dụng trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy bằng cách điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Mặc dù hiện nay chưa có quy định cụ thể về thời hạn điều trị đối với người nghiện đang điều trị nghiện bằng thuốc thay thế, tuy nhiên, để tạo nền tảng cho việc xử lý tội phạm, thời gian điều trị có thể được xác định theo phác đồ điều trị, liệu trình chỉ định của bác sĩ cho đến khi người nghiện ma tuý hết nghiện hoặc có giấy xác nhận hoàn thành việc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Như vậy, nếu người sử dụng trái phép chất ma tuý đang trong thời gian điều trị nghiện bằng thuốc thay thế theo liệu trình và phác đồ điều trị đã được bác sĩ, cơ sở điều trị nghiện các dạng chất thuốc phiện bằng thuốc thay thế mà có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 256a BLHS.

Hai là, người sử dụng trái phép chất ma tuý khi đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện. Xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của công tác cai nghiện ma tuý và khả năng tái nghiện (nghiện trở lại) của người nghiện ma tuý, Điều 40 Luật Phòng, chống ma túy quy định sau khi kết thúc thời gian cai nghiện ma tuý (tự nguyện hoặc bắt buộc) thì người đã cai nghiện phải chịu sự quản lý, giám sát của chính quyền cấp xã trong thời gian cụ thể như sau:

 “Người đã hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện, người đã hoàn thành điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự quản lý sau cai nghiện ma túy trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hoàn thành việc cai nghiện hoặc chấp hành xong quyết định.

 Người đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự quản lý sau cai nghiện ma túy trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định. Trong trường hợp này, người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đủ 18 tuổi trở lên”.

Như vậy, nếu người sử dụng trái phép chất ma tuý vi phạm thời hạn tương ứng với từng trường hợp cụ thể (01 năm đối với người hoàn thành cai nghiện ma tuý tự nguyện, điều trị nghiện bằng thuốc thay thế hoặc đối đối tượng từ 12 đến dưới 18 tuổi chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; 02 năm đối với người cai nghiện ma tuý bắt buộc), thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.

Ba là, người sử dụng trái phép chất ma tuý khi đang trong 2 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy và trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy. Để xử lý người sử dụng trái phép chất ma tuý trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện:

Điều kiện thứ nhất, người sử dụng trái phép chất ma tuý đang trong 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện. Như đã trình bày, thời hạn quản lý sau cai nghiện được xác định là 01 năm hoặc 02 năm tuỳ từng trường hợp cụ thể. Khi hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma tuý, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú và đưa người bị quản lý ra khỏi danh sách quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú[4]. Sau khi hết thời hạn này, trong vòng 2 năm, nếu người đã cai nghiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý thì được xem là đáp ứng một phần điều kiện để có thể bị xử lý hình sự về Tội sử dụng trái phép chất ma tuý theo quy định của BLHS.

Điều kiện thứ hai, người sử dụng trái phép chất ma tuý đang trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý theo quy định của Luật Phòng, chống ma tuý. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Phòng, chống ma túy, thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành quyết định quản lý. Thời hạn này được xác định độc lập với thời hạn quản lý sau cai nghiện và được tính từ thời điểm Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành Quyết định quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý (sau khi có nghi vấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý và người này được xét nghiệm cho kết quả dương tính với chất ma tuý[5]).

Như vậy, người sử dụng trái phép chất ma tuý bị truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 256a BLHS năm 2025 cần thoả mãn đầy đủ 2 điều kiện trên, thiếu một trong hai điều kiện này thì hành vi sẽ không cấu thành tội phạm. Tức là, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấm dứt quản lý sau cai nghiện, nếu cá nhân sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không thuộc diện quản lý của UBND cấp xã thì không thể xử lý hình sự. Ngược lại, nếu người đó đang trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng đã quá 02 năm kể từ khi kết thúc thời hạn quản lý sau cai nghiện (hoặc không thuộc trường hợp bị quản lý sau cai nghiện), thì cũng không đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bốn là, người sử dụng trái phép chất ma tuý đang trong 2 năm kể từ khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy. Trong trường hợp chưa hết thời hạn cai nghiện tự nguyện, hoặc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế, nhưng người cai nghiện tự ý dừng không điều trị nữa. Trong thời hạn 2 năm kể từ ngày họ tự ý dừng cai nghiện, nếu họ sử dụng ma túy trái phép thì đủ căn cứ để xử lý hình sự theo điểm d khoản 1 Điều 256a BLHS năm 2015.

  1. Chủ thể của Tội sử dụng trái phép chất ma túy

Bộ luật Hình sự hiện hành quy định chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại. Đối với Tội sử dụng trái phép chất ma tuý, chủ thể của tội phạm được xác định là cá nhân, người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Cụ thể, người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này khi thực hiện hành vi phạm tội. Đây là những người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi đó. Những người sử dụng ma túy trong tình trạng bị cưỡng bức, ép buộc hoặc do không nhận thức được hành vi (bị lừa) thì không phải là chủ thể của tội phạm này.

  1. Mặt chủ quan của Tội sử dụng trái phép chất ma túy

Tội phạm sử dụng trái phép chất ma tuý được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi sử dụng chất ma túy là hành vi bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi đó đối với bản thân và xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Trong quá trình thực hiện hành vi, họ nhận biết được các chất mình sử dụng là ma túy nhưng vẫn mong muốn sử dụng nó hoặc tìm mọi cách để sử dụng nó.

Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, trên thực tế, người phạm tội thường thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn cơn nghiện, tìm kiếm cảm giác hưng phấn, hoặc do bị bạn bè rủ rê, lôi kéo. Việc xác định động cơ có thể có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Khoản 2 Điều 256a cũng quy định về trường hợp tái phạm hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cụ thể là: Hành vi khách quan lúc này không cần phải đi kèm với các điều kiện về thời hạn cai nghiện hay quản lý như các trường hợp trên. Chỉ cần người đó đã có một tiền án về tội danh này trước đó mà chưa được xóa án tích, thì bất kỳ hành vi sử dụng ma túy nào tiếp theo cũng đủ để cấu thành tội phạm ở khung hình phạt nặng hơn.

Tóm lại, hình sự hóa hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là sự thay đổi cần thiết trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay, thể hiện sự quyết tâm của pháp luật Việt Nam trong cuộc chiến phòng, chống ma túy. Việc làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội phạm này góp phần tạo điều kiện cho công tác xử lý, giải quyết các tội phạm về ma tuý, đồng thời thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý trong thời gian tới./.

Danh mục tài liệu tham khảo

  1. Quốc hội (2015). Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025);
  2. Quốc hội (2021). Luật phòng, chống ma túy số 73/2021/QH14 ;
  3. Quốc hội (2012). Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13;
  4. Nghị định 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống ma túy;
  5. Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 của Chính phủquy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túyLuật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy;
  6. Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất.
  7. Nghị định số 90/2024/NĐ-CP ngày 17/7/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

[1] Giáo trình Luật Hình sự – Phần chung, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

[2] Khoản 2 Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý năm 2021

[3] Khoản 3 Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý năm 2021

[4] Điều 81, Nghị định 116/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy

[5] Điều 38 Nghị định 105/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống ma túy