Cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng cơ chế Tố tụng Công ích ở Việt Nam

Lê Đình Bảo[1]

Phan Lê Minh Anh[2]

* Tóm tắt:

Tố tụng công ích là một cơ chế pháp lý cho phép các chủ thể khởi kiện và tham gia tố tụng nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, tập thể hoặc các nhóm yếu thế trong xã hội, ngay cả khi quyền lợi cá nhân của họ không bị xâm hại trực tiếp. Cơ chế này đã được ghi nhận ở những mức độ khác nhau trong một số lĩnh vực như tố tụng hành chính, tố tụng dân sự ở Việt Nam, nhưng việc áp dụng vẫn còn thiếu tính hệ thống và hiệu quả. Bài viết này sẽ phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tố tụng công ích ở Việt Nam, thông qua các vụ việc cụ thể, chỉ ra những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

*Từ khóa: Tố tụng công ích; lợi ích công cộng; khởi kiện đại diện; pháp luật tố tụng.

*Abstract:

Public interest litigation is a legal mechanism that allows subjects to initiate lawsuits and participate in proceedings to protect public interests, the interests of the State, collectives, or vulnerable groups in society, even when their personal rights are not directly infringed. This mechanism has been recognized to varying degrees in certain areas such as administrative and civil proceedings in Vietnam, but its application remains unsystematic and ineffective. This paper analyzes the legal basis and practical implementation of public interest litigation in Vietnam through specific cases, points out existing shortcomings, and proposes solutions for improvement.

Keywords: Public interest litigation; public interest; representative action; procedural law.

  1. Đặt vấn đề

Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm yếu thế là nhiệm vụ trọng tâm. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã khẳng định một trong số những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính là “Nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện”. Nghị quyết cũng đã khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện và đại diện tố tụng, nhằm bảo đảm công lý minh bạch và công bằng.

Tố tụng công ích là một công cụ pháp lý quan trọng, cho phép các chủ thể như Viện Kiểm sát và tổ chức chính trị – xã hội khởi kiện, tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, ngay cả khi quyền lợi của các chủ thể này không bị xâm hại. Trên thế giới, mô hình này đã áp dụng ở một số quốc gia như Ấn Độ, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và được sử dụng hiệu quả, góp phần bảo vệ các quyền lợi xã hội.

Ở Việt Nam, mặc dù đã có các quy định về việc khởi kiện vì lợi ích công, đồng thời theo Nghị quyết số 205/2025/QH15 cơ chế tố tụng công ích đã được thể chế hóa trong lĩnh vực tố tụng dân sự, nhưng hệ thống pháp lý còn thiếu tính đồng bộ, cơ chế phối hợp chưa hiệu quả, và vai trò của xã hội chưa được phát huy đúng mức. Bài viết này sẽ phân tích cơ sở pháp lý của tố tụng công ích tại Việt Nam, thực tiễn xét xử, và nêu một số hạn chế cần khắc phục để hoàn thiện cơ chế này, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ lợi ích công cộng và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

2. Cơ sở pháp lý về tố tụng công ích ở Việt Nam

2.1. Nguyên lý và vai trò của tố tụng công ích trong hệ thống pháp lý

Tố tụng công ích (Public Interest Litigation – PIL) là một cơ chế pháp lý quan trọng được xây dựng nhằm bảo vệ những giá trị xã hội chung, như lợi ích công cộng, quyền lợi của Nhà nước và các nhóm yếu thế trong xã hội, ngay cả khi các quyền lợi cá nhân không bị xâm hại trực tiếp. Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi ngày càng có nhiều dạng vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng cho cộng đồng, nhưng lại khó truy cứu trách nhiệm dân sự. Thực tế, nhiều vụ việc gây tổn hại đến môi trường, sức khỏe cộng đồng hay an toàn thực phẩm chỉ dừng lại ở mức xử phạt hành chính hay xử lý hình sự, trong khi trách nhiệm bồi thường-vốn thuộc về tố tụng dân sự-lại bị bỏ ngỏ. Sự thiếu vắng một chủ thể đủ thẩm quyền và động lực để khởi kiện đã tạo ra lỗ hổng pháp lý không nhỏ, khiến trật tự pháp luật, công lý chưa thực sự trọn vẹn.[3]

Cơ chế tố tụng công ích là biện pháp pháp lý cần thiết để khắc phục những lỗ hổng này, đặc biệt khi nhiều nhóm trong xã hội không có điều kiện hoặc khả năng tự mình tiếp cận tòa án. Đây là cơ chế giúp đảm bảo rằng các tổ chức có thể đại diện cho quyền lợi của những người không có tiếng nói hoặc những nhóm dễ bị tổn thương, từ đó bảo vệ những lợi ích công cộng không bị xâm hại.

Khác với tố tụng tư ích (Private interest litigation), nơi quyền khởi kiện gắn liền với việc bảo vệ quyền lợi cá nhân của đương sự, tố tụng công ích cho phép các chủ thể đại diện khởi kiện vì mục tiêu bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Cơ chế này giúp mở rộng phạm vi bảo vệ, không chỉ dừng lại ở quyền lợi cá nhân mà còn bao quát lợi ích của cộng đồng, xã hội, đặc biệt là đối với các vấn đề liên quan đến môi trường, an toàn thực phẩm và các vấn đề công cộng khác. Đây là điểm phân biệt cơ bản với tố tụng tư ích truyền thống vốn gắn liền với nguyên tắc quyền yêu cầu của đương sự và lợi ích cá nhân bị xâm phạm.

Điểm khác biệt căn bản giữa tố tụng công ích và tố tụng tư ích là ở phạm vi lợi ích được bảo vệ và chủ thể khởi kiện. Nếu tố tụng tư ích gắn liền với quyền yêu cầu của đương sự khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại thì tố tụng công ích vượt lên trên phạm vi quyền lợi cá nhân, nhấn mạnh tính đại diện xã hội. Xu hướng quốc tế cho thấy tố tụng công ích được phát triển mạnh ở các nước thuộc hệ thống thông luật như Ấn Độ, Anh, Hoa Kỳ.

Tại các quốc gia hệ thống pháp luật thông luật như Ấn Độ, Hoa Kỳ và Anh, mô hình tố tụng công ích đã được áp dụng thành công trong nhiều thập kỷ. Ở Ấn Độ, từ những năm 1980, Tòa án Tối cao đã mở rộng khái niệm “Locus standi” (Quyền khởi kiện), cho phép bất kỳ công dân hoặc tổ chức nào cũng có thể khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng hoặc quyền lợi của các nhóm yếu thế. Sự mở rộng này đã tạo điều kiện cho các tổ chức bảo vệ môi trường, quyền lợi người tiêu dùng và các nhóm dân quyền tham gia khởi kiện các vụ việc liên quan đến các vấn đề xã hội. Một ví dụ điển hình là vụ kiện bảo vệ quyền lợi của người dân New Delhi liên quan đến ô nhiễm không khí, nơi Tòa án đã yêu cầu các biện pháp cải thiện môi trường sống và giảm thiểu ô nhiễm, từ đó làm thay đổi chính sách bảo vệ môi trường của Ấn Độ.[4]

Gần đây, Trung Quốc cũng phát triển mạnh mô hình “công tố công ích” (Prosecutorial public interest litigation), trao cho Viện Kiểm sát quyền điều tra sơ bộ, kiến nghị khắc phục vi phạm, và khởi kiện công ích trong các lĩnh vực như môi trường, tài sản Nhà nước, an toàn thực phẩm.[5] Mô hình này đã được triển khai rộng rãi và cho phép Viện Kiểm sát chủ động khởi kiện hàng nghìn vụ việc trong các lĩnh vực như bảo vệ môi trường và tài sản công, góp phần vào việc tăng cường tuân thủ pháp luật và bảo vệ lợi ích công cộng.

Mô hình tố tụng công ích đã chứng minh được tính hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích công cộng và quyền lợi của các nhóm yếu thế, từ đó tạo nên một hệ thống pháp lý công bằng và bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, để có thể phát triển và áp dụng hiệu quả cơ chế này ở Việt Nam, cần phải xây dựng một hệ thống pháp lý thống nhất, rõ ràng về quyền khởi kiện, quy trình thủ tục và cơ chế tài chính hỗ trợ. Đồng thời, cần mở rộng quyền khởi kiện cho các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp và các nhóm bảo vệ quyền lợi cộng đồng, để họ có thể đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ lợi ích công cộng và thúc đẩy sự phát triển công bằng trong xã hội.

2.2. Khung pháp lý hiện hành về tố tụng công ích ở Việt Nam

Việc áp dụng tố tụng công ích tại Việt Nam đã và đang trải qua những bước tiến quan trọng, mặc dù còn nhiều bất cập cần khắc phục. Một trong những bước đột phá gần đây là việc thí điểm cho phép Viện Kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền dân sự của các nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công cộng theo Nghị quyết số 205/2025/QH15, được Quốc hội thông qua ngày 24/6/2025. Theo đó, Nghị quyết có 04 Chương và 19 Điều; trong đó Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc tiếp nhận, thu thập, thụ lý thông tin về vi phạm; các biện pháp xác minh, thu thập tài liệu, chúng cứ để chứng minh vi phạm; thông báo cho các chủ thể có liên quan. Đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân để bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của Viện Kiểm sát nhân dân; trách nhiệm của các tổ chức giám định tư pháp, định giá… Hỗ trợ Viện Kiểm sát trong việc thu thập chứng cứ để chứng minh vi phạm và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công. Cùng với đó quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự công ích.

Ngoài Nghị quyết số 205/2025/QH15, quy định của pháp luật hiện hành, mặc dù có quy định pháp lý về tố tụng công ích, cụ thể, Điều 187, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025) quy định “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, thực tế phần lớn các cơ quan, tổ chức chỉ thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, ít khi thực hiện quyền khởi kiện theo quy định này. Từ đó tạo ra khoản trống trong tố tụng dân sự, khi thiếu chủ thể khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng. Nghị quyết số 205/2025/QH15 đã có bước tiến đột phá giải quyết vấn đề này cho phép Viện Kiểm sát thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự khi không có người khởi kiện. Theo khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 205/2025/QH15 “Viện Kiểm sát chỉ khởi kiện khi đã thông báo, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền, trách nhiệm khởi kiện theo quy định của pháp luật nhưng không có người khởi kiện”. Theo quy định trên, khi Viện Kiểm sát phát hiện những thiệt hại liên quan đến lợi ích công cộng, Viện Kiểm sát có quyền thông báo, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện. Nếu những chủ thể này không thực hiện quyền khởi kiện thì Viện Kiểm sát có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Khỏa lấp lỗ hổng pháp lý, bảo vệ lợi ích công cộng khi không có chủ thể thực hiện quyền khởi kiện.

Đây là bước đột phá quan trọng mở ra cơ hội mới cho các cơ quan công tố và tổ chức xã hội trong việc bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Đây cũng là bước tiến trong tư duy lập pháp, thể hiện chuyển biến từ tư duy phản ứng sang chủ động kiến tạo thể chế, phù hợp với tinh thần “đổi mới tư duy lập pháp” mà Quốc hội khóa XV đang theo đuổi. Thay vì chỉ chờ cá nhân bị thiệt hại lên tiếng, Nhà nước giờ đây có thể chủ động bảo vệ lợi ích công-vấn đề vừa cần thiết vừa cấp thiết trong xã hội pháp quyền hiện đại.[6]

Tuy nhiên, Nghị quyết số 205/2025/QH15 là nghị quyết về việc thí điểm tố tụng công ích, đến ngày 01/01/2026 mới có hiệu lực thi hành, ngoài Nghị quyết số 205/2025/QH15 thì hiện nay không có quy định khác hay cơ chế này để tạo khung pháp đầy đủ thống nhất. Nên chủ yếu vẫn phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận của 6 địa phương thực hiện thí điểm và kết quả sau thí điểm để có thể đề xuất khung pháp đầy đủ.

3. Thực tế cơ chế tố tụng công ích ở Việt Nam – Đánh giá và phân tích

3.1. Thực tế tố tụng vụ án dân sự bảo vệ lợi ích công cộng và người dễ bị tổn thương

Trong giai đoạn từ trước năm 2004, Viện Kiểm sát nhân dân vẫn có thể thực hiện quyền khởi tố vụ án dân sự nên thực tế giai đoạn này số lượng án dân sự công ích được khởi tố có số lượng đáng kể. Theo thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân: Từ năm 1961 đến năm 1963, VKSND các cấp đã khởi tố 39 vụ án dân sự; từ năm 1969 đến năm 1972 đã khởi tố 156 vụ án dân sự; từ năm 1973 đến năm 1975 đã khởi tố 141 vụ án dân sự; năm 1978 và 1979 đã khởi tố 711 vụ án và yêu cầu, hướng dẫn các cơ quan có trách nhiệm khởi tố 1.034 vụ án; năm 1984 khởi tố 1.472 vụ án; năm 1985 khởi tố 2.173 vụ án. Chất lượng khởi tố vụ án được bảo đảm, giúp thu hồi nhiều vật tư, tài sản cho Nhà nước, tập thể, cụ thể: Năm 1979, VKSND các tỉnh, thành phố đã thu hồi cho Nhà nước và tập thể 6.297.601 đồng, 141 ha ruộng đất, 728,7 tấn thóc, 350 kg gạo và một số tài sản khác… Từ năm 1990 đến năm 1997, VKSND các cấp đã khởi tố 1.663 vụ án, phát hiện nhiều vi phạm của Tòa án và ban hành 1.454 quyết định kháng nghị phúc thẩm… Từ năm 2002 đến năm 2004, VKSND các cấp đã khởi tố 104 vụ án dân sự.[7]

Giai đoạn từ sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Luật Tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực, Viện Kiểm sát nhân dân không còn thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính. Mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực tương ứng có trách nhiệm khởi kiện vụ án. Tuy nhiên, theo thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, từ ngày 01/01/2005 đến 30/12/2023, số vụ việc mà các cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương là 86 vụ việc/5.548.748 vụ việc, chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ đạt 0,0016%.[8] Thực tế cho thấy số lượng án bảo vệ lợi ích công cộng do cơ quan, tổ chức khởi kiện là rất ít. Nếu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền này không thực hiện quyền khởi kiện thì cũng không có cơ chế nào khác để bảo vệ lợi ích công cộng và nhóm người dễ bị tổn thương khi mà vụ việc đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra, trên thị trường, thực phẩm bẩn, thuốc giả, hàng giả, hàng kém chất lượng, những sản phẩm này gây nguy hại trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của người dân trên diện rộng. Mặc dù có các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng việc khởi kiện dân sự để đòi lại quyền lợi cho toàn bộ người tiêu dùng bị ảnh hưởng chưa được thực hiện hiệu quả. Các cơ quan chỉ xem xét các quy định trách nhiệm hình sự, còn những thiệt hại liên quan trực tiếp đến người tiêu dùng, phần trách nhiệm dân sự chưa được cụ thể hóa. Nhiều trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng nhưng chủ thể bị thiệt hại không cụ thể, dẫn đến việc áp dụng các cơ chế tố tụng truyền thống gặp nhiều khó khăn.[9]

Từ thực tế báo cáo thống kê số lượng án, từ khi Viện Kiểm sát không còn thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính đã xuất hiện một “khoản trống” pháp lý. Cũng như do không có cơ chế đầy đủ đòi lại quyền lợi cho người chịu thiệt hại từ những vụ việc xâm phạm môi trường, xâm phạm an toàn thực phẩm. Gây ra những thiệt hại, tổn hại lợi ích công cộng mà không có cơ chế giải quyết. Nên việc xây dựng quy định, cơ chế tố tụng công ích là rất cần thiết.

Nghị quyết số 205/2025/QH15 về việc thí điểm tố tụng công ích tại 6 địa phương là bước khởi đầu, tạo tiền đề cho việc hoàn thiện các quy định, cơ chế tố tụng công ích sau này. Tuy nhiên, do là thí điểm nên hiện nay việc áp dụng cơ chế này vẫn phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận của mỗi địa phương. Như tại thành phố Đà Nẵng, sau khi Nghị quyết 205/2025/QH15 được thông qua, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã chủ động trong công tác thực hiện, triển khai Nghị quyết. Ngay từ tháng 7/2025, đơn vị đã ban hành Kế hoạch số 60/KH-VKS-P9 ngày 11/7/2025 và Tổ giúp việc coi đây là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng. Không dừng lại ở chỉ đạo chung, Đảng uỷ Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã phân công một đồng chí Phó Viện trưởng phụ trách Phòng 9 cùng với các Kiểm sát viên thành lập Đoàn công tác trực tiếp xuống cơ sở, làm việc với các VKSND khu vực trọng điểm để thu thập tài liệu, xác minh thực tế, lựa chọn vụ việc điển hình có dấu hiệu xâm phạm lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm yếu thế  để tổng hợp báo cáo Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đồng thời chuẩn bị kế hoạch về thí điểm VKSND khởi kiện vụ án dân sự công ích.[10] Kỳ vọng những bước chủ động tiếp cận, triển khai của các địa phương sẽ giúp công tác thí điểm đạt được nhiều kết quả tích cực.

3.2. Những nguyên nhân và hạn chế còn tồn tại đối với tố tụng công ích tại Việt Nam

Từ sự phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng cho thấy cơ chế tố tụng công ích ở Việt Nam hiện có rất ít vụ án công ích được các cơ quan, tổ chức khởi kiện. Theo thống kê từ năm 2005 đến 2023 chỉ có 86 vụ việc được các cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng và nhóm yếu thế, trên tổng số hơn 5,5 triệu vụ việc (chỉ chiếm khoảng 0,0016%). Tình trạng này tạo ra một “khoảng trống” trong tố tụng công ích khi thiếu chủ thể khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng. Từ những phân tích trên, có thể thấy nguyên nhân chủ yếu bao gồm cả khách quan và chủ quan:

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan. Tư duy pháp lý truyền thống chỉ thừa nhận quyền khởi kiện của người bị thiệt hại trực tiếp, chưa quen với khởi kiện vì lợi ích cộng đồng. Các hành vi xâm phạm lợi ích công cộng thường không gây thiệt hại trực tiếp cho cơ quan quản lý, do đó các cơ quan này ít có động cơ khởi kiện mà thường dùng biện pháp hành chính để xử lý. Hơn nữa, khung pháp lý hiện nay về tố tụng công ích còn thiếu đồng bộ và chưa phổ biến rộng, khiến khái niệm khởi kiện vì lợi ích chung còn xa lạ trong thực tiễn.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan. Khi có vấn đề phát sinh, các cơ quan, tổ chức thường ngại khởi kiện do thủ tục phức tạp và nguồn lực hạn chế. Quy trình tố tụng công ích đòi hỏi thu thập chứng cứ từ nhiều bên, tổ chức giám định, xét nghiệm… dẫn đến chi phí và công sức lớn. Trong khi đó, nhiều cán bộ ở cơ quan nhà nước chưa nắm rõ căn cứ pháp lý, không có kinh nghiệm theo đuổi vụ kiện kéo dài, đồng thời vẫn phải thực hiện công việc quản lý chuyên môn, nên thường chọn giải pháp hành chính thay vì tòa án. Mặt khác, nhận thức về vai trò của tố tụng công ích trong một số đơn vị còn hạn chế; các tổ chức chính trị – xã hội và cộng đồng dân cư cũng chưa được khuyến khích tham gia tố giác hoặc bảo vệ lợi ích chung qua tố tụng.

Thứ ba, hạn chế về cơ chế pháp lý và thể chế. Cơ quan Kiểm sát nhân dân có năng lực chuyên môn và nguồn lực để khởi kiện, nhưng hiện pháp luật chưa cho phép các cơ quan, tổ chức ủy quyền cho Viện Kiểm sát thực hiện khởi kiện thay. Đồng thời, chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Viện Kiểm sát với cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương, dẫn đến tình trạng phối hợp liên ngành lỏng lẻo, trách nhiệm chưa rõ ràng. Chưa kể, vai trò của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp (ví dụ hiệp hội nghề nghiệp, hội bảo vệ người tiêu dùng…) trong tố tụng công ích hầu như chưa được luật hóa, làm giảm sức mạnh của xã hội dân sự trong việc phát hiện và khởi kiện các hành vi xâm phạm lợi ích cộng đồng. Do đó, toàn bộ gánh nặng bảo vệ lợi ích công cộng đều đổ lên vai cơ quan công tố, trong khi thực tế có nhiều tổ chức và cộng đồng sẵn sàng tham gia nếu có cơ chế hỗ trợ.

Thứ tư, hạn chế về nguồn lực tài chính. Kinh phí cho tố tụng công ích còn rất hạn chế và chưa được quy định đầy đủ. Các chi phí như thuê chuyên gia giám định môi trường, đo đạc đất đai hay xét nghiệm đều rất lớn, nhưng hiện không có quỹ hay cơ chế bù đắp nếu vụ kiện thất bại. Kinh nghiệm từ Trung Quốc và Nhật Bản cho thấy thiếu nguồn lực tài chính ổn định dễ khiến các vụ kiện công ích “chết yểu” trước khi giải quyết được vụ việc.

Từ thực trạng và các nguyên nhân trên, nhiều ý kiến cho rằng cơ chế hiện hành chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc thiếu cơ quan đại diện khởi kiện kịp thời để bảo vệ lợi ích Nhà nước và nhóm yếu thế đã đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện khung pháp lý và thể chế. Để khắc phục các hạn chế này, cần sớm ban hành hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể, xây dựng khung pháp luật rõ ràng (ví dụ quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm khởi kiện của Viện Kiểm sát và các tổ chức xã hội), hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành và bố trí nguồn lực tài chính hỗ trợ cho tố tụng công ích. Những giải pháp này sẽ giúp tố tụng công ích phát huy vai trò thực chất, góp phần hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích công cộng và đạt được mục tiêu cải cách tư pháp theo định hướng Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

  1. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị hoàn thiện cơ chế tố tụng công ích ở Việt Nam

Từ những kết quả bước đầu và các hạn chế đã phân tích, có thể thấy cơ chế tố tụng công ích ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một số vấn đề vướng mắc cả về pháp lý và tổ chức thực hiện, đòi hỏi cần có định hướng hoàn thiện phù hợp.

Thứ nhất, khung pháp luật hiện hành về tố tụng công ích chưa thống nhất, thiếu tính hệ thống, mới dừng lại ở các điều khoản phân tán trong Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Bảo vệ môi trường. Nghị quyết số 205/2025/QH15 vẫn chỉ quy định trong tố tụng dân sự. Quy định về điều kiện khởi kiện, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, phạm vi lợi ích công cộng được bảo vệ chưa được thiết kế thành một cơ chế đầy đủ, minh bạch.

Thứ hai, thiếu cơ chế khuyến khích các chủ thể ngoài Viện Kiểm sát (như tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng) tham gia tố tụng công ích. So với mô hình ở Trung Quốc và Nhật Bản – nơi các tổ chức xã hội dân sự được trao quyền khởi kiện rộng rãi và hỗ trợ tài chính thì ở Việt Nam các tổ chức này còn lúng túng do chưa có quy định cụ thể về tư cách pháp lý, điều kiện tham gia, trách nhiệm liên quan. Thiếu cơ chế tố giác; cộng đồng, xã hội, các cơ quan, tổ chức khi phát hiện các hoạt động xâm phạm lợi ích công cộng, hoặc thực trạng có thiệt hại lợi ích công cộng có thể chủ động thực hiện tố giác lên Viện Kiểm sát, Tòa án xác định vụ việc để kịp thời bảo vệ lợi ích công cộng.

Thứ ba, nguồn lực triển khai khởi kiện công ích còn hạn chế, nhất là về kinh phí. Hoạt động giám định môi trường, đo đạc tài sản công, thuê chuyên gia độc lập thường tốn kém nhưng chưa có cơ chế bù đắp, chi trả rõ ràng. Điều này dễ dẫn đến tâm lý “ngại khởi kiện” vì chi phí rủi ro cao

Thứ tư, thiếu quy trình, quy chuẩn nghiệp vụ đồng bộ, nhất là quy trình phối hợp liên ngành giữa Viện Kiểm sát, cơ quan quản lý chuyên ngành, UBND địa phương và các tổ chức đại diện cộng đồng. Thực tiễn một số vụ án cho thấy sự phối hợp còn hình thức, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm, làm kéo dài thời gian giải quyết.

Xuất phát từ các vấn đề trên, chúng tôi đề xuất một số nhóm giải pháp cụ thể như sau:

Một là, xây dựng, ban hành một khung pháp luật thống nhất về tố tụng công ích, có thể thiết kế thành một chương riêng trong Bộ luật Tố tụng Dân sự sửa đổi hoặc xây dựng và ban hành một đạo luật chuyên biệt. Khung pháp luật này cần quy định đầy đủ: phạm vi lợi ích công cộng; điều kiện khởi kiện; quy trình thủ tục; quyền và trách nhiệm của Viện Kiểm sát và các tổ chức xã hội. Định hướng này hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Hai là, mở rộng quyền khởi kiện công ích cho các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp, kèm theo các tiêu chí về năng lực, phạm vi đại diện và trách nhiệm pháp lý khi khởi kiện không thành công. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, khi trao quyền cho các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tham gia khởi kiện công ích, số lượng vi phạm bị xử lý tăng rõ rệt.

Ba là, xây dựng cơ chế tố giác vụ việc; cộng đồng, xã hội, các cơ quan, tổ chức khi phát hiện các hoạt động xâm phạm lợi ích công cộng, hoặc thực trạng có thiệt hại lợi ích công cộng dù chưa phát hiện chủ thể có hoạt động xâm phạm có thể chủ động thực hiện các hoạt động tố giác vụ việc lên Viện Kiểm sát, Tòa án xác minh vụ việc để kịp thời có các hoạt động bảo vệ lợi ích công cộng.

Bốn là, thiết lập cơ chế hỗ trợ tài chính cho tố tụng công ích, ví dụ thành lập Quỹ hỗ trợ tố tụng công ích từ nguồn ngân sách nhà nước kết hợp xã hội hóa. Các quốc gia như Trung Quốc đã cho thấy mô hình “Điều tra sơ bộ + Kiến nghị tự khắc phục + Khởi kiện chính thức” giúp giảm thiểu chi phí tố tụng và nâng cao hiệu quả khôi phục thiệt hại.

Năm là, ban hành quy trình nghiệp vụ chuẩn, hướng dẫn cụ thể trách nhiệm phối hợp giữa Viện Kiểm sát với các cơ quan quản lý chuyên ngành, UBND các cấp và các tổ chức xã hội. Việc này sẽ giảm tình trạng lúng túng, chồng chéo trong khâu chuẩn bị hồ sơ, thu thập chứng cứ.

Sáu là, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ kiểm sát, nhất là kỹ năng nghiệp vụ thu thập chứng cứ, giám định chuyên ngành, kỹ năng tranh tụng bảo vệ lợi ích công cộng. Nội dung này cần được gắn với các khóa đào tạo chuyên đề, bồi dưỡng định kỳ do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức.

Nhìn chung, nếu các giải pháp trên được triển khai đồng bộ, cơ chế tố tụng công ích sẽ phát huy hiệu quả thực chất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, tố tụng công ích là một thiết chế pháp lý quan trọng, góp phần hiện thực hóa nguyên tắc công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích chung trong xã hội. Qua phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn tại Việt Nam có thể thấy, mặc dù đã có những bước tiến nhất định, điển hình là Nghị quyết số 205/2025/QH15, nhưng cơ chế này vẫn còn nhiều bất cập Khung pháp luật chưa thống nhất, số lượng vụ việc được khởi kiện công ích còn hạn chế, cơ chế phối hợp liên ngành chưa hiệu quả và nguồn lực tài chính cho hoạt động tố tụng công ích còn thiếu hụt. Thực tiễn cho thấy khoảng trống pháp lý và sự lúng túng trong áp dụng đã làm giảm đáng kể hiệu quả bảo vệ lợi ích công cộng và nhóm yếu thế.

Từ kinh nghiệm quốc tế cũng như yêu cầu cải cách tư pháp trong nước, việc hoàn thiện cơ chế tố tụng công ích ở Việt Nam là hết sức cần thiết. Cần thiết lập khung pháp luật thống nhất, mở rộng quyền khởi kiện cho các tổ chức xã hội, thiết lập cơ chế tố giác vụ việc, xây dựng quỹ hỗ trợ tố tụng công ích, đồng thời ban hành quy trình nghiệp vụ chuẩn và tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thực thi. Nếu các giải pháp này được triển khai đồng bộ, cơ chế tố tụng công ích sẽ trở thành công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích Nhà nước, cộng đồng và nhóm yếu thế, qua đó khẳng định vai trò của pháp luật trong bảo đảm công lý và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015). Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025.
  2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015). Luật Tố tụng Hành chính số 93/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 và năm 2025.
  3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020). Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
  5. Báo Quân đội nhân dân, “Tố tụng công ích – bước đi mới vì công lý bao trùm”, truy cập tại: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/to-tung-cong-ich-buoc-di-moi-vi-cong-ly-bao-trum-831062, truy cập lúc 13h ngày 06/07/2025.
  6. Tòa án Tối cao Ấn Độ (1987), Vụ M.C. Mehta kiện Liên bang Ấn Độ (M.C. Mehta v. Union of India), AIR 1987 SC 965, liên quan đến ô nhiễm không khí tại New Delhi;
  7. Báo Quân đội nhân dân, “Tố tụng công ích – bước đi mới vì công lý bao trùm”, truy cập tại: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/to-tung-cong-ich-buoc-di-moi-vi-cong-ly-bao-trum-831062, truy cập lúc 13h ngày 06/07/2025.
  8. Cổng thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, “Vai trò của VKSND trong bảo vệ lợi ích công ở Trung Quốc bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, truy cập tại: https://vksndtc.gov.vn/cong-tac-kiem-sat/vai-tro-cua-vksnd-trong-bao-ve-loi-ich-cong-o-trun-d10-t10784.html?Page=12#new-related, truy cập lúc 13h00 ngày 01/9/2025.
  9. Phụ nữ Việt Nam, “Vụ việc khởi kiện bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương chỉ đạt 0,0016%”, truy cập tại: https://phunuvietnam.vn/vu-viec-khoi-kien-bao-ve-loi-ich-cong-va-nhom-de-bi-ton-thuong-chi-dat-00016-20250519152850189.htm?gidzl=O81E8Qyddp1cdKOkgZwRCckPH2AyRiWoTCiIUkjkppLmmaGklcIVDNx7JocqOfCuVy9B9p7vbEWfg26VEm, Truy cập lúc 9h50, ngày 07/07/2025
  10. Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, “Tố tụng công ích – tầm nhìn chiến lược trong xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, truy cập tại: https://tapchitoaan.vn/to-tung-cong-ich-tam-nhin-chien-luoc-trong-xay-dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia13801.html?gidzl=hM0d1RYQrachVIyAlOFIIQfuAmMdqeT8jIfzNV3IW4-n8oi9fTZGJxyc80wltjn2lYCa034ZoSXqlvpMGW, Truy cập lúc 10h00, ngày 07/08/2025
  11. Trang thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, “Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố trong thí điểm khởi kiện vụ án dân sự công ích”, truy cập tại: https://vksdanang.gov.vn/hoat-dong-cua-vksnd-tp-da-nang/vai-tro-cua-vien-kiem-sat-nhan-dan-thanh-pho-trong-thi-diem-khoi-kien-vu-an-dan-su-cong-ich-1361.html?, truy cập lúc: 11h00 ngày 03/9/2025
  12. Báo Lao động, “Thí điểm Viện Kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự công ích”, truy cập tại https://laodong.vn/thoi-su/thi-diem-vien-kiem-sat-nhan-dan-khoi-kien-vu-an-dan-su-cong-ich-1490546.ldo, truy cập lúc 11h24 ngày 04/7/2025.

[1] Giảng viên Khoa Hình sự – Phân hiệu Trường Đại học Kiểm sát tại Tp Hồ Chí Minh.

[2] Chuyên viên Phòng Quản trị và Thông tin tư liệu – Phân hiệu Trường Đại học Kiểm sát tại Tp Hồ Chí Minh.

[3] Báo Quân đội nhân dân, “Tố tụng công ích – bước đi mới vì công lý bao trùm”, truy cập tại: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/to-tung-cong-ich-buoc-di-moi-vi-cong-ly-bao-trum-831062, truy cập lúc 13h ngày 06/07/2025.

[4] Tòa án Tối cao Ấn Độ (1987), Vụ M.C. Mehta kiện Liên bang Ấn Độ (M.C. Mehta v. Union of India), AIR 1987 SC 965, liên quan đến ô nhiễm không khí tại New Delhi;

[5] “Hội thảo trao đổi kinh nghiệm về Chế định Kiểm sát tố tụng công ích Trung Quốc.” ngày 26/3/2025 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc tổ chức.

[6] Báo Quân đội nhân dân, “Tố tụng công ích – bước đi mới vì công lý bao trùm”, truy cập tại: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/to-tung-cong-ich-buoc-di-moi-vi-cong-ly-bao-trum-831062, truy cập lúc 13h ngày 06/07/2025.

[7] Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Vai trò của VKSND trong bảo vệ lợi ích công ở Trung Quốc bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, truy cập tại: https://vksndtc.gov.vn/cong-tac-kiem-sat/vai-tro-cua-vksnd-trong-bao-ve-loi-ich-cong-o-trun-d10-t10784.html?Page=12#new-related, truy cập lúc 13h00 ngày 01/9/2025

[8] Phụ nữ Việt Nam, “Vụ việc khởi kiện bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương chỉ đạt 0,0016%”, truy cập tại: https://phunuvietnam.vn/vu-viec-khoi-kien-bao-ve-loi-ich-cong-va-nhom-de-bi-ton-thuong-chi-dat-00016-20250519152850189.htm?gidzl=O81E8Qyddp1cdKOkgZwRCckPH2AyRiWoTCiIUkjkppLmmaGklcIVDNx7JocqOfCuVy9B9p7vbEWfg26VEm, Truy cập lúc 9h50, ngày 07/07/2025

[9] Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, “Tố tụng công ích – tầm nhìn chiến lược trong xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, truy cập tại: https://tapchitoaan.vn/to-tung-cong-ich-tam-nhin-chien-luoc-trong-xay-dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia13801.html?gidzl=hM0d1RYQrachVIyAlOFIIQfuAmMdqeT8jIfzNV3IW4-n8oi9fTZGJxyc80wltjn2lYCa034ZoSXqlvpMGW, Truy cập lúc 10h00, ngày 07/08/2025

[10] Trang thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, “Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố trong thí điểm khởi kiện vụ án dân sự công ích”, truy cập tại: https://vksdanang.gov.vn/hoat-dong-cua-vksnd-tp-da-nang/vai-tro-cua-vien-kiem-sat-nhan-dan-thanh-pho-trong-thi-diem-khoi-kien-vu-an-dan-su-cong-ich-1361.html? truy cập lúc: 11h00 ngày 03/9/2025