Quyền tự do ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

                                                                            ThS. Nguyễn Thị Miến

Quyền tự do ly hôn là một trong những quyền nhân thân cơ bản của công dân, được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Cụ thể, Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Quy định này khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của cá nhân trong việc chấm dứt quan hệ hôn nhân khi đời sống chung không còn hạnh phúc, phù hợp với nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng giới. Quyền ly hôn không chỉ là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho mỗi người mà còn thể hiện tính nhân văn, tiến bộ của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong gia đình.

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật[1].

Quyền tự do ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là một trong những quyền cơ bản của vợ chồng, thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự do ý chí và bình đẳng trong quan hệ hôn nhân. Quyền tự do ly hôn được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể tại Điều 51, thể hiện ở việc mỗi bên vợ hoặc chồng đều có quyền chủ động yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi quan hệ hôn nhân đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Về ý nghĩa pháp lý, quyền tự do ly hôn là cơ sở để bảo vệ nhân phẩm, quyền tự quyết và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong hôn nhân, góp phần loại bỏ những mối quan hệ ràng buộc mang tính ép buộc, hình thức hay bạo lực. Điều này được coi là một trong những quyền cơ bản của mỗi người trong hôn nhân, thể hiện sự tự do cá nhân trong việc quyết định duy trì hay chấm dứt quan hệ hôn nhân. Hơn nữa, quy định này thể hiện quan điểm nhân văn của Nhà nước trong việc coi hạnh phúc gia đình là quyền, chứ không phải nghĩa vụ bắt buộc.

Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ, chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, cha, mẹ hoặc người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bị bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần. Luật cũng quy định rõ ràng rằng việc ly hôn chỉ được công nhận khi có căn cứ cho thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được (Điều 56). Quyền tự do ly hôn không chỉ bảo vệ lợi ích cá nhân của mỗi bên mà còn góp phần bảo đảm công bằng, nhân đạo và tôn trọng quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình.

Quyền tự do ly hôn được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận thông qua việc cho phép vợ, chồng thực hiện quyền yêu cầu ly hôn trong một số trường hợp sau:

Thứ nhất, trường hợp thuận tình ly hôn

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn[2].

Thuận tình ly hôn được xem là hình thức ly hôn thể hiện sự tự nguyện, bình đẳng và văn minh trong quan hệ hôn nhân, khi hai bên nhận thấy tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ và đời sống chung không thể kéo dài. Khác với ly hôn đơn phương, thuận tình ly hôn có ưu điểm là giảm thiểu xung đột, tiết kiệm thời gian, chi phí và tạo điều kiện để hai bên duy trì mối quan hệ tôn trọng, hợp tác sau ly hôn, đặc biệt trong việc nuôi dạy con chung. Trên thực tế, Tòa án khi giải quyết thuận tình ly hôn vẫn có trách nhiệm tiến hành hòa giải để bảo đảm rằng quyết định ly hôn là thật sự tự nguyện và xuất phát từ ý chí của cả hai bên, đồng thời kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của các thỏa thuận về tài sản và con cái.

Ngoài ra, thủ tục thuận tình ly hôn được giải quyết theo thủ tục việc dân sự nên thời gian xem xét, ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn nhanh hơn thủ tục giải quyết vụ án ly hôn. Việc quy định về thuận tình ly hôn tại Điều 55 không chỉ thể hiện tính nhân văn và tiến bộ của pháp luật Việt Nam trong việc tôn trọng quyền tự do hôn nhân, mà còn góp phần giảm tải cho hệ thống Tòa án và hướng tới giải quyết các mâu thuẫn gia đình một cách hòa bình, tôn trọng quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là quyền lợi của trẻ em – những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc ly hôn của cha mẹ.

Ví dụ: Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 93/2024/QĐST-HNGĐ Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội ngày 08 tháng 4 năm 2024:

Nhận định của Tòa án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thùy D và anh Nguyễn M N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu trước và đăng ký kết hôn ngày 10/05/2012 tại Ủy ban nhân dân phường M Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Nay, anh, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn của anh, chị là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần được công nhận.

Về con chung: Anh, chị có 02 (hai) con chung là Nguyễn Bảo M sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn M H – sinh ngày 01/11/2017. Anh, chị thỏa thuận: anh N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M, chị D trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu H; tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với cả hai bên cho đến khi các bên có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác. Hai bên có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở. Thỏa thuận của anh chị hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên cần được chấp nhận.

Về tài sản, nhà đất chung, công nợ: Anh, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã ra quyết định ông nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể như sau:

 – Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị Thùy D và anh Nguyễn M N.

– Về con chung: Theo thỏa thuận, chị D trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu H, anh N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M; cả hai được tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đến khi các bên có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.

Việc pháp luật công nhận và khuyến khích hình thức ly hôn này cho thấy Nhà nước không can thiệp cứng nhắc vào đời sống riêng tư của công dân, mà chỉ đóng vai trò điều tiết, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là quyền lợi của người yếu thế. Đây là bước tiến trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, ly hôn theo yêu cầu của một bên

Quyền tự do ly hôn theo yêu cầu của một bên, được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thể hiện sự bảo vệ quyền tự quyết của cá nhân trong mối quan hệ hôn nhân. Theo đó, khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Quy định này nhằm tôn trọng quyền tự do cá nhân của mỗi người, giúp họ thoát khỏi một mối quan hệ không còn phù hợp hoặc không hạnh phúc.

Như vậy, việc ly hôn đơn phương không phải là tự do tuyệt đối, mà phải tuân thủ các điều kiện pháp lý sau:

* Có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình:

Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm các hành vi:

– Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;

– Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

– Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý;

– Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;

– Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình;

– Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý;

– Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

– Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

– Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng;

– Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;

– Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp;

– Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;

– Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình;

– Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác;

– Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;

– Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật.

Những hành vi này không chỉ vi phạm đạo đức xã hội mà còn xâm hại trực tiếp đến quyền con người, làm mất đi sự tôn trọng, yêu thương và bình đẳng -những giá trị cốt lõi của hôn nhân.

Trong quá trình giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ xem xét mức độ nghiêm trọng, tính thường xuyên của hành vi bạo lực, hậu quả đối với sức khỏe, tinh thần của người bị hại, cũng như khả năng hòa giải, hàn gắn của quan hệ vợ chồng. Khi nhận thấy hành vi bạo lực đã khiến đời sống hôn nhân trở nên trầm trọng, không thể duy trì, Tòa án có thể quyết định cho ly hôn để bảo vệ người bị hại và đảm bảo công bằng xã hội.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã coi hành vi bạo lực gia đình là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của một bên, thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong gia đình.

Ví dụ: Theo Bản án số 40/2023/HNGĐ-ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà: Bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Đình Q kết hôn với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Ph, quận S, thành phố Đà Nẵng (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 67 ngày 13/6/2003). Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại số 170 đường Chính H, phường Ph đến năm 2007 sống tại số 87 đường Đặng Vũ H, phường Ph, quận S, thành phố Đà Nẵng. Quá trình chung sống đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung hay cãi vã.  Ông Q hay nhậu nhẹt say xỉn về nhà đánh đập vợ con và khóa cửa không cho bà và các con vào nhà, ông còn nghi ngờ ghen tuông dùng dao cắt cổ khiến bà phải đi cấp cứu, chính quyền địa phương có giải quyết nhưng được sự khuyên can của gia đình nên bà bỏ qua và ngoài lần này ra còn rất nhiều lần ông Q đánh bà phải nhập viện. Nay bà không còn tình cảm với ông Q nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Q.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm: Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” nhưng giữa vợ chồng bà L và ông Q đều không thực hiện được điều đó. Bà L khẳng định không còn yêu thương ông Q và cũng không thể hàn gắn để tiếp tục chung sống. Việc ông Q cho rằng mâu thuẫn không đáng kể và mong muốn vợ chồng được đoàn tụ nên không đồng ý ly hôn nhưng ông không có giải pháp nào để khắc phục được tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng. Đồng thời, Tòa án đã triệu tập tham gia xét xử nhưng ông không có mặt, như vậy xét thấy ông không có thiện chí để hàn gắn gia đình. Thực tế và qua xác minh về tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông Q tại địa phương cho thấy trong quá trình chung sống vợ chồng bà L, ông Q có xảy ra mâu thuẫn, ông Q rượu chè, say xỉn đánh đập vợ, bạo lực gia đình và bà L không còn sinh sống với ông Q tại số 87 đường Đặng Vũ H. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa bà L và ông Q đã thật sự trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng hàn gắn không còn. Vì vậy, căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, xử cho bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Đình Q là phù hợp.

Từ đó có thể thấy, việc coi bạo lực gia đình là căn cứ ly hôn theo yêu cầu của một bên không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc. Nó khẳng định vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, đồng thời góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mỗi cá nhân được sống trong môi trường hôn nhân an toàn, bình đẳng và hạnh phúc.

* Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng:

Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia[3].

Trong chế định hôn nhân, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng là nền tảng quan trọng bảo đảm cho mối quan hệ hôn nhân được duy trì bền vững, hạnh phúc và bình đẳng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ tại Điều 19 rằng vợ chồng có nghĩa vụ “thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau” và “cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Ngoài ra, Điều 21 còn quy định nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Khi một bên vợ hoặc chồng không thực hiện, hoặc cố tình vi phạm những nghĩa vụ này một cách nghiêm trọng, hành vi đó được coi là vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của pháp luật.

Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng được hiểu là những hành vi của một bên gây tổn hại nặng nề đến tình cảm, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Những hành vi điển hình có thể kể đến như: bạo lực gia đình về thể chất hoặc tinh thần; ngoại tình kéo dài, công khai vi phạm nghĩa vụ chung thủy; thường xuyên chửi mắng, xúc phạm, lăng mạ, ngược đãi người bạn đời; cố tình chiếm đoạt hoặc hủy hoại tài sản chung, bỏ mặc nghĩa vụ chăm sóc con cái hoặc không tôn trọng quyền tự do cá nhân của người kia.

Theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng là một trong những căn cứ pháp lý để Tòa án xem xét cho ly hôn theo yêu cầu của một bên. Khi xét xử, Tòa án sẽ căn cứ vào mức độ vi phạm, hậu quả gây ra và khả năng hàn gắn của quan hệ hôn nhân. Nếu thấy rằng mối quan hệ đã thực sự đổ vỡ, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, Tòa án có thể quyết định cho ly hôn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xâm hại.

Ví dụ: Theo Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp: Bà U và ông K do mai mối và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức đám cưới vào năm 1987 và được UBND xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/12/2000. Thời gian đầu bà U và ông K chung sống với nhau hạnh phúc nhưng thời gian sau này thường xuyên xảy ra mâu thuẫn về chuyện tình cảm. Bà U nhận thấy ông K thay đổi, không còn yêu thương bà và con như trước. Bà U vì thương con nên cố gắng chịu đựng mong chờ ông K thay đổi, gần đây tình cảm vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn, bà U và ông K mâu thuẫn nhau từ những chuyện rất nhỏ làm cho không khí gia đình lúc nào cũng căng thẳng. Ông K có người phụ nữ khác bên ngoài nên bỏ bê, không chăm sóc mẹ, con bà U như trước. Vợ chồng bà U sống ly thân từ năm 2017. Trong quá trình ly thân, không ai nói chuyện với ai, công việc ai người đó làm, ông K thường hay đi đi về về nhà nhưng ông K thường hay về buổi tối rồi sáng lại đi tiếp. Việc ông K thường hay đi đi về về tại địa chỉ ấp A, xã T thì đã được Công an xã T xác nhận và có con chung tên H chứng kiến biết việc này. Nay bà U nhận thấy hạnh phúc hôn nhân không còn níu kéo được nữa, cuộc sống hôn nhân không còn được hạnh phúc. Bà U yêu cầu xin được ly hôn với ông Ngô Đông K. Bà U chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông K.

Nhận xét của Tòa án cấp sơ thẩm: Bà U và ông K do mai mối, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 1987 và được UBND xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/12/2000. Quan hệ hôn nhân giữa bà U và ông K được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, theo bà U trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng thời gian gần đây do ông K có người phụ nữ khác nên không còn thương yêu bà U và con như trước. Vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và cãi nhau làm cho không khí gia đình lúc nào cũng căng thẳng vì thương con nên bà U đã cố gắng chịu đựng mong chờ ông K thay đổi nhưng ông K vẫn không thay đổi. Bà U và ông K đã ly thân nhau từ năm 2017. Trong thời gian ly thân này, cả bà U và ông K đều không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng, hiện nay mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai, điều này cho thấy hôn nhân giữa hai người không đạt được mục đích và đời sống chung không thể kéo dài. Đồng thời, lời trình bày của bà U phù hợp với lời khai của người làm chứng anh Võ Tấn T và chị Ngô Ngọc Như H. Hơn nữa, ông K mặc dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm và cũng không có văn bản ý kiến gì, điều này cho thấy ông K không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà U.

Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trong giải quyết ly hôn mà còn trong việc bảo vệ các giá trị đạo đức, văn hóa và pháp lý của gia đình Việt Nam. Mỗi cá nhân trong quan hệ hôn nhân cần nhận thức sâu sắc rằng quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng không chỉ là cam kết tình cảm, mà còn là trách nhiệm pháp lý được Nhà nước bảo hộ. Việc tôn trọng, yêu thương và thực hiện đúng nghĩa vụ đối với bạn đời chính là nền tảng để xây dựng một gia đình văn minh, bình đẳng và hạnh phúc bền vững.

* Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được:

Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được là thuộc một trong các trường hợp sau đây: Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng; Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình; Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau; Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển[4].

Tuy nhiên, đối với trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người chồng không được quyền yêu cầu ly hôn, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người vợ và đứa trẻ. Quy định này thể hiện rõ sự cân bằng giữa quyền tự do cá nhân và trách nhiệm xã hội, vừa bảo đảm quyền tự quyết của mỗi người trong việc chấm dứt hôn nhân, vừa thể hiện tính nhân đạo, coi trọng sự ổn định và an toàn của gia đình, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em.

Pháp luật Việt Nam đã công nhận quyền ly hôn đơn phương của một bên mà không cần sự đồng thuận của bên kia, điều này nhằm bảo vệ quyền tự do cá nhân của mỗi người trong mối quan hệ hôn nhân, đồng thời tránh việc ép buộc một người phải tiếp tục sống trong một mối quan hệ không hạnh phúc. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu việc ly hôn đơn phương phải có căn cứ xác thực, đồng thời, sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Như vậy, quyền tự do ly hôn theo Điều 56 vừa khẳng định sự tiến bộ của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, vừa đảm bảo tính nhân văn, hướng tới mục tiêu duy trì sự công bằng và ổn định trong đời sống gia đình.

Việc làm rõ cơ sở pháp lý, phạm vi và giới hạn quyền tự do ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần bảo đảm sự công bằng và ổn định trong quan hệ hôn nhân – gia đình. Quy định này không chỉ thể hiện sự tiến bộ của pháp luật trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, mà còn phản ánh tinh thần nhân đạo, dân chủ và phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện nay.

Như vậy, quyền tự do ly hôn được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần nhân văn, tiến bộ và bình đẳng giới trong pháp luật Việt Nam. Quyền này đảm bảo cho cả vợ và chồng có thể chấm dứt quan hệ hôn nhân khi cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Việc pháp luật công nhận và bảo vệ quyền tự do ly hôn không chỉ nhằm đảm bảo quyền cá nhân của mỗi người mà còn góp phần duy trì sự ổn định xã hội thông qua việc giải quyết mâu thuẫn gia đình bằng con đường hợp pháp. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn cũng đi kèm với trách nhiệm, đó là nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi chính đáng của bên còn lại và đặc biệt là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của con cái sau khi hôn nhân chấm dứt. Quyền tự do ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không chỉ là sự khẳng định quyền tự quyết của cá nhân trong đời sống hôn nhân mà còn thể hiện định hướng của Nhà nước trong việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Danh mục tài liệu tham khảo:

Hiến pháp năm 2013;

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022;

Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tố cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình;

Bản án số 39/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp;

Bản án số 40/2023/HNGĐ-ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng;

Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 93/2024/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

[1] Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tố cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.

[4] Khoản 3 Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tố cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.