Bàn về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Ths. Lê Thị Nga – Phó Trưởng khoa Kiểm sát hình sự – Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tái thẩm là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 397 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Thủ tục này được tiến hành khi có kháng nghị của người có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục và trong thời hạn luật định. Thời hạn kháng nghị đã được quy định tại Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuy nhiên khi áp dụng điều luật này vào thực tiễn đã xuất hiện vướng mắc nhất định dẫn đến thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng.
Thời hạn kháng nghị tái thẩm là thời gian pháp lý do luật tố tụng hình sự quy định, được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác, để người có thẩm quyền thực hiện việc kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục tái thẩm. Theo quy định tại Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn kháng nghị tái thẩm được quy định theo từng trường hợp khác nhau:
Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy, theo quy định này, việc kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự. Trong đó, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hiệu này được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên, nếu trong thời hạn này người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Nếu trong thời hạn này người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. Thời hạn kháng nghị tái thẩm không được quá một năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới phát hiện.
Quy định trên đã đưa ra từng trường hợp cụ thể tương đối rõ ràng về thời hạn kháng nghị tái thẩm. Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau khi áp dụng, đó là về thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án. Hiện nay, tồn tại 02 quan điểm: Quan điểm thứ nhất: Với nguyên tắc thực hiện đúng những gì được pháp luật quy định, theo đúng nội dung điều luật thì việc kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời gian 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày tội phạm đó được thực hiện. Và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện. Ngoài thời hạn trên thì người có thẩm quyền không được kháng nghị tái thẩm theo hướng bất lợi cho người bị kết án dù có đủ căn cứ. Tuy nhiên, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự còn được quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự. Điều luật này đưa ra trường hợp đặc biệt là không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó, không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự đối với một số loại tội phạm đặc biệt, bao gồm: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353; Tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật hình sự. Như vậy, đối với các loại tội phạm được liệt kê tại Điều 28 Bộ luật hình sự thì không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tức là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm các tội này được tiến hành bất kỳ lúc nào. Vì vậy, theo quan điểm thứ hai thì ngoài thời hiệu theo Điều 27 Bộ luật hình sự, khi xem xét thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng bất lợi cho người bị kết án sẽ áp dụng cả Điều 28 Bộ luật hình sự. Điều này có nghĩa là việc kháng nghị tái thẩm theo hướng bất lợi cho người bị kết án đối với các loại tội phạm đặc biệt quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự sẽ được thực hiện bất kỳ lúc nào. Hay nói cách khác, thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án là 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi hành vi phạm tội xảy ra, trừ trường hợp đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353; Tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật Hình sự. Đây cũng là quan điểm của các Kiểm sát viên khi thực hiện công tác này. Theo quan điểm của tác giả, mặc dù nội dung Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chỉ viện dẫn Điều 27 mà không viện dẫn quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự khi xác định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự để làm căn cứ tính thời hạn kháng nghị tái thẩm. Tuy nhiên, xuất phát từ tính nguy hiểm đặc biệt của các loại tội phạm quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự và về nguyên tắc chung thì áp dụng Điều 28 Bộ luật hình sự trong trường hợp này là phù hợp. Việc không viện dẫn Điều 28 Bộ luật hình sự là một sự thiếu sót khi xây dựng quy định về thời hạn kháng nghị tái thẩm tại Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều này dẫn tới việc khi áp dụng thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án sẽ có những quan điểm khác nhau về nhận thức và áp dụng pháp luật. Từ đó, việc áp dụng quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự trong trường hợp trên sẽ thiếu một căn cứ pháp lý đầy đủ. Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ và có căn cứ của việc áp dụng pháp luật trong trường hợp này, các nhà làm luật cần viện dẫn thêm căn cứ là Điều 28 Bộ luật hình sự khi quy định về thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án tại Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều này sẽ đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp, đầy đủ của quy định cũng như thống nhất việc áp dụng quy định này trên thực tế.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp hình sự, tăng cường các biện pháp tố tụng hình sự nhằm hạn chế, loại trừ tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự, việc nâng cao chất lượng công tác kháng nghị tái thẩm là hết sức cần thiết. Vì vậy, việc bổ sung quy định của Điều 401 Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quy định, tạo điều kiện cho việc kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án là rất cần thiết và cần được thực hiện kịp thời để đáp ứng yêu cầu của việc phòng chống tội phạm trong tình hình mới./.