Bưởi Da xanh Bến Tre bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong giai đoạn sáp nhập Tỉnh

Nguyễn Minh Đức
Lê Đình Bảo

*Tóm tắt: Bưởi da xanh Bến Tre là đặc sản có giá trị cao, gắn liền với danh tiếng địa phương được bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ năm 2018. Tuy nhiên, việc sáp nhập tỉnh đang đặt ra nhiều thách thức pháp lý trong quản lý và bảo hộ Cchỉ dẫn địa lý. Bài viết phân tích khó khăn, đề xuất giải pháp bảo vệ chỉ dẫn địa lý  này trong giai đoạn tái cấu trúc tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh. Từ đó, chỉ ra những bất cập phát sinh từ việc sáp nhập, đồng thời đề xuất giải pháp như xác định vùng sản xuất, cơ chế liên tỉnh, mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ và hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ bền vững giá trị chỉ dẫn địa lý  trong bối cảnh hành chính mới.

*Từ khoá: Sở hữu trí tuệ; Chỉ dẫn địa lý; Bưởi da xanh; Sáp nhập tỉnh
1. Đặt vấn đề

Bưởi da xanh Bến Tre là một loại trái cây nổi tiếng với hương vị thơm ngon đặc trưng, được xem như niềm tự hào của tỉnh Bến Tre. Sản phẩm này không chỉ mang lại giá trị văn hóa và thương mại cho địa phương, mà còn là nguồn sinh kế quan trọng, giúp nhiều hộ nông dân Bến Tre vươn lên làm giàu[1].

     Hình 1: Quả và múi bưởi da xanh Bến Tre

Nhận thức được giá trị đó, ngày 26/01/2018, Cục Sở hữu trí tuệ đã ban hành Quyết định số 297/QĐ-SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý (CDĐL) số 00062 cho sản phẩm “Bưởi da xanh Bến Tre”. Tiếp đó, ngày 28/6/2019, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định số 1359/QĐ-UBND quy định về kiểm soát việc sử dụng CDĐL đối với sản phẩm này trên địa bàn tỉnh. Quy định này nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các CDĐL của tỉnh Bến Tre[2], ngăn chặn và chấm dứt tình trạng trộn lẫn, mạo danh bưởi da xanh Bến Tre, đồng thời mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ cho các sản phẩm mang thương hiệu Bến Tre[3].

Tuy nhiên, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh gần đây đang tạo ra nhiều khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ và phát triển CDĐL cho sản phẩm này. Theo Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị Trung ương 11 (khóa XIII) và Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, từ ngày 01/7/2025, toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh đã được hợp nhất vào một tỉnh mới có tên là tỉnh Vĩnh Long[4]. Việc thay đổi địa giới hành chính này đặt ra vấn đề làm thế nào để tiếp tục bảo vệ và phát triển CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” trong bối cảnh tỉnh mới, nhất là khi nhiều yếu tố liên quan đến khai thác, quản lý và sử dụng sản phẩm đang có sự thay đổi đáng kể. Do đó, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ, duy trì CDĐL cho Bưởi da xanh Bến Tre trong điều kiện địa giới hành chính mới là một yêu cầu cấp thiết, cần được quan tâm giải quyết một cách thấu đáo.

Việc bảo vệ và phát triển CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” đang đối mặt thách thức khi tỉnh Bến Tre sáp nhập với Vĩnh Long và Trà Vinh. Bài viết sẽ làm rõ những nội dung chính: (1) Đối tượng được bảo vệ – xác định phạm vi sản phẩm và tên gọi địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” theo pháp luật; (2) Chủ thể bảo vệ – cơ quan, tổ chức được giao quản lý theo Quy chế địa phương và Luật Sở hữu trí tuệ, quyền hạn và nguy cơ chồng chéo khi địa giới thay đổi; (3) Nội dung quyền được bảo hộ – quyền sử dụng tên gọi “Bến Tre”, tiêu chuẩn chất lượng, danh tiếng sản phẩm và cơ chế kiểm soát logo CDĐL; (4) Biện pháp bảo vệ – các giải pháp pháp lý và quản lý từ trung ương đến địa phương nhằm ngăn chặn xâm phạm và duy trì giá trị CDĐL. Bài viết này tiếp cận cả góc độ pháp lý lẫn thực tiễn, đánh giá bất cập và đề xuất giải pháp khả thi để bảo đảm CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” tiếp tục phát triển bền vững trong bối cảnh địa giới hành chính mới.
2. Khái quát về chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre”

2.1. Giới thiệu về sản phẩm Bưởi da xanh Bến Tre

Bưởi da xanh Bến Tre là giống bưởi có nguồn gốc địa phương, sinh trưởng tốt trong điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đặc trưng của tỉnh Bến Tre – nơi có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa và hệ thống sông ngòi chằng chịt đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cây bưởi sinh trưởng và phát triển tốt.

Với diện tích canh tác hơn 5.900 ha, tập trung ở các huyện như Châu Thành, Giồng Trôm, Chợ Lách và Mỏ Cày Bắc, bưởi Da Xanh hiện là một trong năm loại cây ăn trái chủ lực của tỉnh Bến Tre[5]. Đặc điểm nổi bật của giống bưởi này là quả có hình cầu, trọng lượng trung bình từ 1,3 – 1,4 kg, vỏ mỏng, màu xanh nhạt đến vàng xanh khi chín. Phần ruột bưởi có màu hồng đỏ, tép bưởi to, mọng nước, dễ tách, không hạt hoặc rất ít hạt, vị ngọt thanh và không chua, độ Brix trung bình từ 9,5–12%, mang lại giá trị cảm quan cao[6].

Ngoài ra, sản phẩm còn có khả năng bảo quản tốt, giữ được độ tươi và chất lượng trong thời gian dài sau thu hoạch, thích hợp để tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu. Kỹ thuật canh tác hiện đại như điều tiết ra hoa, quản lý sâu bệnh, tưới tiêu tự động và bón phân hợp lý được nông dân địa phương ứng dụng rộng rãi, bên cạnh việc duy trì các phương pháp chăm sóc truyền thống. Một số vùng trồng đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP, nâng cao giá trị sản phẩm và đáp ứng yêu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế[7]. Tính đến nay, bưởi da xanh Bến Tre đã có mặt tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chiến lược của Việt Nam. Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản phẩm còn có giá trị dinh dưỡng đáng kể như giàu vitamin C, hỗ trợ tiêu hóa, chống oxy hóa và giảm cholesterol, góp phần nâng cao sức khỏe người tiêu dùng[8].

2.2. Chỉ dẫn địa lý sản phẩm Bưởi da xanh Bến Tre

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây dựng và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là CDĐL trở thành công cụ quan trọng nhằm nâng cao giá trị thương mại và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu. CDĐL không chỉ thể hiện mối liên kết giữa sản phẩm và vùng địa lý đặc thù, mà còn là cơ sở pháp lý để bảo vệ uy tín, danh tiếng và quyền lợi kinh tế cho cộng đồng địa phương. Việc xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý được Nhà nước thực hiện thông qua cấp văn bằng bảo hộ, với thời hạn không giới hạn, khi sản phẩm vẫn đáp ứng các tiêu chí về nguồn gốc và chất lượng đặc thù của sản phẩm mang CDĐL[9].

Trong số các nông sản đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam, “Bưởi da xanh Bến Tre” là một ví dụ điển hình thể hiện rõ giá trị của cơ chế này trong thực tiễn phát triển kinh tế nông nghiệp địa phương. Chỉ dẫn địa lý này được công nhận và bảo hộ theo hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Việc bảo hộ CDĐL không chỉ ghi nhận giá trị địa danh gắn với sản phẩm mà còn bảo vệ uy tín, nguồn gốc và chất lượng của sản phẩm trên thị trường. UBND tỉnh Bến Tre được giao nhiệm vụ là cơ quan chủ quản, có trách nhiệm kiểm tra, giám sát và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sử dụng CDĐL đúng quy định. Điều này góp phần nâng cao tính minh bạch, tạo sự tin tưởng đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước.
3. Thực trạng khai thác và sử dụng chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” trong bối cảnh sáp nhập tỉnh

3.1. Tình hình chỉ dẫn địa lý Bưởi da xanh Bến Tre hiện nay

Hiện nay, việc sử dụng CDĐL đối với sản phẩm bưởi da xanh đã đạt được những kết quả tích cực. Nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp và hộ nông dân đã chủ động đăng ký và sử dụng CDĐL để tăng giá trị thương mại và mở rộng thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, công tác quản lý còn phân tán, thiếu sự đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn và địa phương. Việc giám sát chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn CDĐL vẫn còn phụ thuộc vào nguồn lực của địa phương và sự phối hợp giữa các bên liên quan chưa cao.

Chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL số 00062 theo Quyết định số 297/QĐ-SHTT ngày 26/01/2018. Đây là minh chứng quan trọng cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm đặc sản địa phương có danh tiếng, chất lượng và đặc tính gắn liền với điều kiện địa lý cụ thể của tỉnh Bến Tre[10]. Bưởi Da Xanh Bến Tre mang các đặc điểm hình thái và chất lượng đặc trưng do điều kiện sinh thái độc đáo của vùng đất phù sa ven sông, có khí hậu ôn hòa, thổ nhưỡng giàu dinh dưỡng và hệ thống canh tác truyền thống bền vững. Khu vực địa lý được xác định cho CDĐL bao gồm các huyện: Giồng Trôm, Chợ Lách, Bình Đại, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Châu Thành và thành phố Bến Tre – là những vùng trồng có quy mô và sản lượng lớn nhất của tỉnh[11].

UBND tỉnh Bến Tre được giao nhiệm vụ tổ chức quản lý CDĐL, có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc giám sát, hướng dẫn và kiểm tra việc sử dụng CDĐL đúng quy định. Theo Quyết định số 1359/QĐ-UBND ngày 28/6/2019, tỉnh đã ban hành Quy định kiểm soát việc sử dụng CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre”, trong đó yêu cầu các tổ chức, cá nhân sử dụng chỉ dẫn phải đảm bảo sản phẩm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc rõ ràng và tuân thủ quy trình sản xuất phù hợp với đặc điểm sinh thái vùng địa lý được bảo hộ.

Tuy nhiên, từ ngày 01/7/2025 tỉnh Bến Tre được sáp nhập trên cơ sở sáp nhập ba tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long thành tỉnh Vĩnh Long. Chính vì thế chỉ dẫn địa lý Bưởi da xanh Bến Tre cũng có nhiều thay đổi. Việc sáp nhập này đồng nghĩa với việc tên gọi hành chính “tỉnh Bến Tre” không còn tồn tại trên bản đồ hành chính. Điều này tạo ra những thách thức thực tiễn về phương diện nhận diện thương hiệu địa phương và bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với các đặc sản nổi tiếng lâu nay gắn liền với địa danh Bến Tre, có thể kể đến như kẹo dừa Bến Tre, các loại trái cây đặc sản như sầu riêng Cái Mơn, chôm chôm, xoài Tứ Quý, cùng những sản phẩm nông nghiệp khác như dừa xiêm xanh, gạo Nàng Keo, cua biển, tôm càng xanh, nghêu,v.v… Nhiều sản phẩm trong số này đã được pháp luật công nhận, có thể kể đến đó là chỉ dẫn địa lý Bưởi da xanh Bến Tre. CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” là một tài sản tập thể được thiết lập dựa trên sự đồng thuận về danh tiếng, đặc điểm địa lý, truyền thống canh tác và tính đặc thù của vùng sản xuất. Tuy nhiên, các yếu tố này vốn dĩ gắn chặt với không gian hành chính đã xác lập. Việc sáp nhập tỉnh có thể dẫn đến đứt gãy tính thống nhất của cấu trúc quản lý, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng kiểm soát và bảo vệ chỉ dẫn địa lý một cách hiệu quả.

3.2. Thực trạng khai thác và sử dụng chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” trong bối cảnh sáp nhập tỉnh

Bối cảnh sáp nhập tỉnh mang đến nguy cơ phá vỡ ranh giới truyền thống của vùng chỉ dẫn địa lý. Việc điều chỉnh địa giới hành chính có thể gây khó khăn trong việc xác định vùng sản xuất đặc trưng và ranh giới bảo hộ hợp pháp của CDĐL. Ngoài ra, khi địa phương quản lý CDĐL bị thay đổi hoặc sáp nhập vào đơn vị hành chính lớn hơn, nguy cơ xung đột quyền quản lý, chồng chéo thẩm quyền giữa các địa phương là điều không thể tránh khỏi. Hệ quả là công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và định vị thương hiệu sản phẩm đặc sản có thể bị suy yếu, tạo cơ hội cho hành vi gian lận thương mại, mạo danh và ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin người tiêu dùng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh nhằm tinh gọn bộ máy nhà nước, các tài sản sở hữu trí tuệ gắn với địa danh tiêu biểu như chỉ dẫn địa lý đang đứng trước nguy cơ bị suy yếu cả về mặt pháp lý lẫn hiệu quả quản lý và có sự nhầm lẫn về các tài sản trí tuệ của tỉnh bị sáp nhập. Cụ thể:

Nguy cơ nhầm lẫn và phai mờ bản sắc đặc sản địa phương. Với việc tên gọi tỉnh Bến Tre bị xóa khỏi danh xưng hành chính, một vấn đề đáng lo ngại là sự thay đổi trong nhận thức của công chúng về nguồn gốc các đặc sản nổi tiếng vốn gắn với địa danh này. Trước đây, người tiêu dùng mặc nhiên hiểu kẹo dừa, bưởi da xanh, sầu riêng,v.v… có xuất xứ từ vùng đất Bến Tre; nhưng nay khi mọi sản phẩm trên bao bì nếu ghi địa chỉ hành chính mới là tỉnh Vĩnh Long, công chúng có thể nhầm lẫn cho rằng đó là đặc sản của Vĩnh Long. Thực tế, dư luận ở nhiều nơi đã bày tỏ mong muốn giữ lại tên địa phương cũ trên tên đặc sản để bảo toàn giá trị truyền thống: ví dụ, người dân lo ngại nếu phải đổi tên “mỳ Chũ Bắc Giang” thành “mỳ Chũ Bắc Ninh” sau sáp nhập thì “nghe như  không đúng với giá trị ẩm thực” và làm mất đi nét hoài niệm gắn bó với địa phương gốc. Tương tự, việc xóa bỏ tên gọi Bến Tre có thể khiến các chỉ dẫn địa lý nói chung và bưởi da xanh Bến Tre nói riêng dần dần bị gọi lệch thành sản phẩm của tỉnh mới, làm mờ nhạt ý nghĩa địa lý tích tụ trong những thương hiệu địa phương lâu đời.

Nguy cơ mai một bản sắc đặc sản Bến Tre không chỉ dừng ở vấn đề tên gọi. Các tên địa danh như “Bến Tre” chứa đựng những tầng văn hóa, lịch sử và niềm tự hào cộng đồng; do đó, khi bị thay thế, giá trị bản sắc gắn liền với đặc sản địa phương cũng bị suy suyển. Việc sáp nhập tỉnh, nếu không có giải pháp bảo tồn kịp thời, có thể khiến các chỉ dẫn địa lý vốn gắn liền với tên gọi cũ bị nhòa đi trong diện mạo hành chính mới. Nỗi băn khoăn “liệu khi tên gọi hành chính thay đổi, thương hiệu địa phương có còn giữ nguyên sức hút?” đã xuất hiện ở nhiều nơi khi thực hiện chủ trương sáp nhập.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, nếu không có hướng dẫn rõ ràng, sẽ nảy sinh nhiều vướng mắc: Doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất “bưởi da xanh Bến Tre” nay đặt trụ sở tại Vĩnh Long sẽ phải ghi nhãn như thế nào để vừa tuân thủ quy định hành chính mới, vừa bảo đảm quyền sử dụng CDĐL “Bến Tre”? Liệu họ có được tiếp tục dùng cụm từ “Bến Tre” trên nhãn hiệu, bao bì sản phẩm hay phải thay thế bằng tên tỉnh mới? Ngược lại, các tổ chức và cá nhân ngoài phạm vi địa lý CDĐL gốc (ví dụ ở phần đất Vĩnh Long hoặc Trà Vinh trước đây) có thể lợi dụng sự mập mờ về tên tỉnh để quảng bá sản phẩm của mình như đặc sản “Bến Tre” hay không? Đây là những câu hỏi thực tiễn đặt ra cho công tác quản lý CDĐL sau khi địa giới hành chính thay đổi.

Về thực tế khai thác hiện nay, hệ thống sử dụng CDĐL “Bưởi da danh Bến Tre” đang vận hành dựa trên sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước cấp tỉnh, các hợp tác xã nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cùng với các cơ quan chứng nhận độc lập như Sở Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, cơ chế này chủ yếu hoạt động theo mô hình tập trung địa phương. Khi sáp nhập hành chính, việc mở rộng không gian quản lý sang một tỉnh mới có thể làm thay đổi hoàn toàn mạng lưới điều phối, dẫn đến việc lúng túng trong xác định thẩm quyền cấp phép, kiểm soát chất lượng, cũng như quyền đại diện pháp lý của chỉ dẫn địa lý trên thị trường nội địa và quốc tế.[12]

Việc sáp nhập tỉnh Bến Tre vào tỉnh mới đặt ra bài toán phức hợp về bảo vệ thương hiệu đặc sản địa phương và duy trì hiệu lực chỉ dẫn địa lý trong bối cảnh thay đổi địa danh hành chính. Những phân tích trên cho thấy nguy cơ hiện hữu của sự nhầm lẫn xuất xứ, phai mờ giá trị văn hóa – địa lý và những lỗ hổng pháp lý có thể xảy ra đối với CDĐL “Bến Tre” nếu không có biện pháp ứng phó phù hợp.

3.3. Những khó khăn đặt ra đối với sản phẩm chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” trong bối cảnh sáp nhập tỉnh

Việc thực hiện chủ trương sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh tuy nhằm mục tiêu cải cách bộ máy quản lý nhà nước, nhưng lại đặt ra nhiều thách thức đối với các sản phẩm đã được bảo hộ CDĐL, đặc biệt là những sản phẩm gắn bó mật thiết với yếu tố bản địa như “Bưởi da xanh Bến Tre”.

Thứ nhất, và quan trọng nhất, là tên gọi chỉ dẫn địa lý Bến Tre khi thay đổi địa danh hành chính. “Bưởi da xanh Bến Tre” là sản phẩm đã được cấp CDĐL mang địa danh Bến Tre, đồng nghĩa với việc tên gọi “Bến Tre” là yếu tố xác định nguồn gốc địa lý của sản phẩm. Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, chỉ dẫn địa lý được hiểu là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực địa lý cụ thể.[13] Do đó, địa danh gắn liền với sản phẩm chính là thành tố cốt lõi của CDĐL. Vậy, khi sáp nhập, CDĐL “Bến Tre” của sản phẩm Bưởi da xanh được tiếp tục sử dụng hay sẽ bị thay thế bằng CDĐL “Vĩnh Long” – tên tỉnh mới của Bến Tre sau khi sáp nhập.

Thứ hai, cần lưu ý đến xung đột về chủ thể quản lý. Như đã đề cập, tỉnh Bến Tre được hợp nhất với tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, hình thành nên một tỉnh mới mang tên Vĩnh Long. Theo Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL, tổ chức quản lý CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” thuộc về UBND tỉnh Bến Tre. Vậy, trong bối cảnh sáp nhập, ai sẽ là tổ chức chịu trách nhiệm quản lý CDĐL này? Nghị định 65/2023/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, mới chỉ quy định một số trách nhiệm chung của tổ chức quản lý CDĐL; tuy nhiên vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào cho trường hợp sáp nhập các tỉnh, thành phố như vậy.

Thứ ba, vấn đề chuyển đổi thông tin đăng ký. Theo Cục Sở hữu trí tuệ, thủ tục để thay đổi thông tin liên quan đến các nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ chỉ có thể thực hiện được sau khi việc sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp đã hoàn thành.[14] Điều này dẫn đến một khoảng trống pháp lý tạm thời, đó là trong giai đoạn chuyển tiếp, CDĐL có thể bị sử dụng sai mục đích do thiếu một cơ quan quản lý rõ ràng.

Thứ tư, khó khăn trong việc duy trì tính toàn vẹn của vùng địa lý đặc thù. CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” được xây dựng dựa trên tập hợp các yếu tố tự nhiên – địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu và thuỷ văn cùng với kinh nghiệm canh tác truyền thống của nông dân Bến Tre. Khi địa giới hành chính bị điều chỉnh hoặc mở rộng sang địa phương khác, ranh giới địa lý được bảo hộ theo hồ sơ CDĐL cũ có thể không còn trùng khớp với thực tế hành chính mới, dẫn đến nguy cơ mất tính nhất quán về đặc tính sản phẩm.[15] Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi các vùng mới không có cùng điều kiện sinh thái nhưng lại được gộp chung dưới một đơn vị quản lý. Như đã phân tích,mô hình tổ chức chính quyền địa phương tại Việt Nam đã chính thức chuyển sang hai cấp: cấp tỉnh (gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và cấp xã (gồm xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh), đồng thời bỏ hoàn toàn cấp huyện trên toàn quốc. Theo Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL, khu vực địa lý mang CDĐL của “Bưởi da xanh Bến Tre” gồm: Huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm, huyện Mỏ Cày Bắc, huyện Chợ Lách, huyện Mỏ Cày Nam và huyện Bình Đại, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Như vậy, các khu vực địa lý mang CDĐL đã không còn phù hợp với thực tế.

Thứ năm, rủi ro gia tăng trong kiểm soát và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong bối cảnh sáp nhập, cơ quan đầu mối phụ trách quản lý CDĐL có thể bị thay đổi hoặc sáp nhập vào một cơ cấu tổ chức lớn hơn, dẫn tới sự gián đoạn trong hệ thống giám sát, chứng nhận và xử lý vi phạm[16]. Việc thiếu rõ ràng về thẩm quyền có thể làm chậm quá trình kiểm tra việc sử dụng CDĐL, từ đó tạo lỗ hổng cho hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng trà trộn trên thị trường dưới danh nghĩa “Bưởi Da Xanh Bến Tre”.

Thứ sáu, thách thức trong công tác truyền thông và định vị thương hiệu. Trong nhiều năm qua, thương hiệu “Bưởi da xanh Bến Tre” đã được định vị rõ ràng trong tâm trí người tiêu dùng trong và ngoài nước như một đặc sản tiêu biểu của tỉnh Bến Tre. Việc thay đổi địa danh hành chính có thể gây nhiễu loạn nhận diện thương hiệu, làm suy giảm giá trị thị trường và ảnh hưởng đến chiến lược xuất khẩu. Đặc biệt với thị trường nước ngoài, nơi sự ổn định và minh bạch về nguồn gốc là yếu tố then chốt trong kiểm soát chất lượng, bất kỳ sự thay đổi nào cũng cần được lý giải rõ ràng, nếu không sẽ làm mất lợi thế cạnh tranh.

Thứ bảy, tâm lý e ngại và thiếu chủ động từ phía cộng đồng sản xuất. Người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương – những chủ thể đang trực tiếp khai thác CDĐL – có thể thiếu thông tin, không được tham vấn đầy đủ về tác động của sáp nhập tỉnh. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu sự chuẩn bị, chậm thích nghi với cơ chế quản lý mới và nguy cơ mất quyền sử dụng CDĐL nếu không thực hiện đúng quy trình cập nhật hồ sơ pháp lý.

Tổng thể, những khó khăn này nếu không được nhận diện và xử lý kịp thời sẽ làm suy giảm đáng kể hiệu quả kinh tế, giá trị thương hiệu và chất lượng quản trị CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” – một tài sản trí tuệ mang tính đặc thù vùng miền và có tiềm năng lớn trong phát triển nông nghiệp hàng hóa theo hướng bền vững.

  1. Đề xuất, giải pháp hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” trong bối cảnh sáp nhập tỉnh

Trước những thách thức đặt ra, cần thiết phải phải rà soát lại các quy định pháp luật liên quan, đồng thời tham khảo kinh nghiệm xử lý ở các trường hợp tương tự, xây dựng một hệ thống giải pháp tổng thể nhằm duy trì và phát huy hiệu quả CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre”; đảm bảo rằng dù tên gọi hành chính “Bến Tre” không còn, nhưng thương hiệu đặc sản Bến Tre cùng những giá trị văn hóa – địa lý đặc thù của vùng đất này vẫn được gìn giữ và phát huy bền vững trong giai đoạn phát triển mới.

Một là, tác giả đề xuất giữ nguyên CDĐL Bến Tre đối với sản phẩm Bưởi da xanh. Điều này góp phần làm giảm sai lệch thông tin về nguồn gốc cũng như duy trì được thương hiệu cho sản phẩm đã dày công xây dựng. Đối với thông tin trên bao bì, có thể giữ chữ “Bến Tre” trong cụm “Bưởi da xanh Bến Tre” và ghi chú nhỏ rằng “sản phẩm thuộc tỉnh Vĩnh Long”. Cách làm này vừa tôn trọng lịch sử và bản sắc địa phương, vừa đảm bảo thích nghi với thực tế hành chính mới, giúp người tiêu dùng hiểu rõ mối liên hệ giữa tên gọi cũ và địa giới mới.

Hai là, trong thời gian chờ đợi sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ để cập nhật các tình huống phát sinh mới như sáp nhập tỉnh, thay đổi địa giới hành chính và chuyển giao thẩm quyền quản lý CDĐL, cần phải ban hành kịp thời văn bản hướng dẫn về việc sửa đổi văn bằng bảo hộ[17], theo hướng UBND cấp tỉnh mới sau sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm kế thừa toàn bộ quyền hạn, trách nhiệm của các tỉnh/thành phố trước khi sáp nhập, hợp nhất để tạo khung hành lang pháp lý thống nhất, áp dụng chung cho cả nước. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại địa phương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về CDĐL. Điều này không chỉ giúp đảm bảo tính hợp pháp mà còn tạo ra một khung pháp lý vững chắc, từ đó góp phần bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và phát triển bền vững cho sản phẩm.

Ba là, cần xác định rõ lại ranh giới địa lý của vùng được cấp CDĐL, đảm bảo tính chính xác, khoa học và phù hợp với đơn vị hành chính mới sau sáp nhập, sắp xếp. Thay vì cấp huyện như trước đây, cần xác định chính xác các đơn vị cấp xã đáp ứng được các tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm cũng như tính chất đặc thù về điều kiện địa lý đã được đăng ký. Bản đồ chỉ dẫn địa lý cần được cập nhật và công bố công khai, kịp thời để người dân và các tổ chức liên quan dễ dàng tiếp cận.

Bốn là, phát triển mô hình liên kết chuỗi giá trị giữa các tác nhân sản xuất – chế biến – tiêu thụ, gắn liền với việc tuân thủ tiêu chuẩn CDĐL. Việc xây dựng nhãn hiệu tập thể, truy xuất nguồn gốc điện tử và áp dụng công nghệ số sẽ giúp nâng cao tính minh bạch và bảo vệ uy tín sản phẩm.

Năm là, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật sở hữu trí tuệ và kiến thức về CDĐL đến cộng đồng địa phương, đặc biệt là người sản xuất. Đồng thời, khuyến khích người tiêu dùng phân biệt và sử dụng sản phẩm đúng nguồn gốc, góp phần bảo vệ CDĐL một cách bền vững.

Tóm lại, việc kết hợp các giải pháp từ nhiều góc độ khác nhau sẽ tạo ra một hệ thống bảo vệ và phát triển CDĐL “Bưởi da xanh Bến Tre” hiệu quả hơn, góp phần vào sự phát triển bền vững của sản phẩm này trong tương lai.

Kết luận

Chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” là tài sản trí tuệ quý giá, mang trong mình bản sắc văn hóa – kinh tế đặc trưng của tỉnh Bến Tre. Trong bối cảnh sáp nhập tỉnh đang được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả bộ máy hành chính, việc bảo vệ và phát huy giá trị CDĐL này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh phù hợp về pháp lý và tổ chức quản lý. Quá trình tái cấu trúc chính quyền địa phương đặt ra nhiều thách thức: ranh giới hành chính thay đổi, cơ chế quản lý phân tán và nguy cơ xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan liên tỉnh. Thực tiễn cho thấy, nếu không có khung pháp lý chặt chẽ và cơ chế phối hợp thống nhất, giá trị thương hiệu và uy tín sản phẩm khó được bảo đảm bền vững. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về CDĐL, nhất là các quy định liên quan đến quản lý liên tỉnh, định danh vùng sản xuất và bảo vệ danh tiếng sản phẩm là cấp thiết. Bên cạnh đó, cần tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ, đào tạo năng lực quản lý cho tổ chức được giao quyền. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động truyền thông để khẳng định vị thế của bưởi da xanh trên thị trường. Những giải pháp này không chỉ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà còn góp phần duy trì lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị kinh tế và văn hóa cho đặc sản Bến Tre trong giai đoạn hành chính mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022.
  2. Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII.
  3. Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/06/2025 của Quốc hội nước Công hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
  4. Nghị định 65/2023/NĐ-CP cảu Chính phủ hướng dẫn quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
  5. Cục Sở hữu trí tuệ, Quyết định số 297/QĐ-SHTT ngày 26/01/2018 về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL số 00062 cho sản phẩm Bưởi da xanh Bến Tre.
  6. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Quyết định số 1359/QĐ-UBND ngày 28/6/2019, ban hành Quy định về kiểm soát việc sử dụng chỉ dẫn địa lý thuộc tỉnh Bến Tre.
  7. Tạp chí điện tử doanh nghiệp và thương hiệu, “Nông dân Bến Tre làm giàu từ cây bưởi da xanh VietGAP”, truy cập tại: https://doanhnghiepthuonghieu.vn/nong-dan-ben-tre-lam-giau-tu-cay-buoi-da-xanhvietgapp15613.html#:~:text=DNTH%3A%20C%C3%A2y%20b%C6%B0%E1%BB%9Fi%20da%20xanh,Tre%20v%C6%B0%C6%A1n%20l%C3%AAn%20l%C3%A0m%20gi%C3%A0u, truy cập lúc 17h23 ngày 09/8/2025.
  8. Báo đồng khởi, “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý Bến Tre cho sản phẩm bưởi da xanh và dừa uống nước xiêm xanh (kỳ 1)”, truy cập tại: https://baodongkhoi.vn/bao-ho-chi-dan-dia-ly-ben-tre-cho-san-pham-buoi-da-xanh-va-dua-uong-nuoc-xiem-xanh-ky-1–21082019 a63685.html#:~:text=Ng%C3%A0y%2026,ch%E1%BB%A9c%20qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD%20CD%C4%90L%20n%C3%A0y, truy cập lúc 17h42 ngày 09/8/2025.
  9. Thư viên pháp luật, “Danh sách 41 xã phường mới của Trà Vinh từ 1/7/2025 chính thức sau sáp nhập Bến Tre Trà Vinh Vĩnh Long?”, truy cập tại: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/danh-sach-41-xa-phuong-moi-cua-tra-vinh-tu-172025-chinh-thuc-sau-sap-nhap-ben-tre-tra-vinh-vinh-lon-216339.html#:~:text=T%E1%BB%AB%201%2F7%2F2025%2C%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9c%20s%C3%A1p,quy%E1%BA%BFt%20202%2F2025%2FQH15%20%2C%20%2075”, truy cập lúc 19h10, ngày 09/8/2025.
  10. HaiauTravel (2023), “Bưởi da xanh Bến Tre – Hương vị đặc trưng miền Tây”. Truy cập từ: https://haiautravel.com, truy cập lúc 8h25 ngày 10/8/2025.
  11. Dân Việt (2023), “Bến Tre: Đặc sản bưởi da xanh ruột hồng”. Truy cập từ: https://danviet.vn, truy cập lúc 9h00 ngày 10/8/2025.
  12. MekongFoodtech (2024), “Bưởi da xanh Bến Tre – sản phẩm đạt chuẩn GlobalGAP”. Truy cập từ: https://mekongfoodtech.com, truy cập lúc 10h10 ngày 10/8/2025.
  13. Song Bính An (2023), “Bưởi da xanh Bến Tre – Quà tặng thiên nhiên”. Truy cập từ: https://songbinhan.com, truy cập lúc 10h30 ngày 10/8/2025.
  14. Khoa học phổ thông Online, Tạp chí của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, “Chỉ dẫn địa lý sẽ được thay đổi sau khi sắp xếp đơn vị hành chính”, Truy cập tại https://khoahocphothong.vn/chi-dan-dia-ly-se-duoc-thay-doi-sau-khi-sap-xep-don-vi-hanh-chinh-259483.html truy cập lúc 7h40 ngày 12/8/2025.
  15. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn – IPSARD (2021), “Chỉ dẫn địa lý và phát triển thương hiệu vùng – Những thách thức trong bối cảnh hội nhập”, truy cập tại https://ipsard.gov.vn/vn/searchw.aspx?utm_source=chatgpt.com, Truy cập lúc 7h50 ngày 12/8/2025.
  16. Nguyễn Thị Hạnh (2023), “Tác động của cải cách hành chính tới quyền sở hữu trí tuệ địa phương”. Tạp chí Luật học Phát triển bền vững, 11(4), tr. 58–67.

[1] Tạp chí điện tử doanh nghiệp và thương hiệu, “Nông dân Bến Tre làm giàu từ cây bưởi da xanh VietGAP”, truy cập tại: https://doanhnghiepthuonghieu.vn/nong-dan-ben-tre-lam-giau-tu-cay-buoi-da-xanh-vietgapp15613.html#:~:text=DNTH%3A%20C%C3%A2y%20b%C6%B0%E1%BB%9Fi%20da%20xanh,Tre%20v%C6%B0%C6%A1n%20l%C3%AAn%20l%C3%A0m%20gi%C3%A0u, truy cập lúc 17h23 ngày 09/8/2025.

[2] Xem Điều 92, khoản 7 Điều 93, điểm g khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022.

[3] Báo đồng khởi, “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý Bến Tre cho sản phẩm bưởi da xanh và dừa uống nước xiêm xanh (kỳ 1)”, truy cập tại: https://baodongkhoi.vn/bao-ho-chi-dan-dia-ly-ben-tre-cho-san-pham-buoi-da-xanh-va-dua-uong-nuoc-xiem-xanh-ky-1–21082019-a63685.html#:~:text=Ng%C3%A0y%2026,ch%E1%BB%A9c%20qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD%20CD%C4%90L%20n%C3%A0y, truy cập lúc 17h42 ngày 09/8/2025.

[4] Thư viên pháp luật, “Danh sách 41 xã phường mới của Trà Vinh từ 1/7/2025 chính thức sau sáp nhập Bến Tre Trà Vinh Vĩnh Long?”, truy cập tại: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/danh-sach-41-xa-phuong-moi-cua-tra-vinh-tu-172025-chinh-thuc-sau-sap-nhap-ben-tre-tra-vinh-vinh-lon-216339.html#:~:text=T%E1%BB%AB%201%2F7%2F2025%2C%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9c%20s%C3%A1p,quy%E1%BA%BFt%20202%2F2025%2FQH15%20%2C%20%2075”, truy cập lúc 19h10, ngày 09/8/2025

[5] HaiauTravel (2023), “Bưởi da xanh Bến Tre – Hương vị đặc trưng miền Tây”. Truy cập từ: https://haiautravel.com, truy cập lúc 8h25 ngày 10/8/2025.

[6] Dân Việt (2023), “Bến Tre: Đặc sản bưởi da xanh ruột hồng”. Truy cập từ: https://danviet.vn, truy cập lúc 9h00 ngày 10/8/2025.

[7] MekongFoodtech (2024), “Bưởi da xanh Bến Tre – sản phẩm đạt chuẩn GlobalGAP”. Truy cập từ: https://mekongfoodtech.com, truy cập lúc 10h10 ngày 10/8/2025.

[8] Song Bính An (2023), “Bưởi da xanh Bến Tre – Quà tặng thiên nhiên”. Truy cập từ: https://songbinhan.com, truy cập lúc 10h30 ngày 10/8/2025.

[9] Xem Điều 92, khoản 7 Điều 93, điểm g khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022.

[10] Cục Sở hữu trí tuệ (2018), “Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý số 00062 – Bưởi Da Xanh Bến Tre”. Bộ Khoa học và Công nghệ.

[11] Uỷ ban nhân dân tỉnh tỉnh Bến Tre (2019), “Quyết định số 1359/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 về việc ban hành quy định kiểm soát việc sử dụng chỉ dẫn địa lý “Bưởi Da Xanh Bến Tre””.

[12] Nguyễn Thị Hạnh (2023), “Tác động của cải cách hành chính tới quyền sở hữu trí tuệ địa phương”. Tạp chí Luật học Phát triển bền vững, 11(4), tr. 58–67.

[13] Xem khoản 22 Điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022.

[14] Khoa học phổ thông Online, Tạp chí của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, “Chỉ dẫn địa lý sẽ được thay đổi sau khi sắp xếp đơn vị hành chính”, Truy cập tại https://khoahocphothong.vn/chi-dan-dia-ly-se-duoc-thay-doi-sau-khi-sap-xep-don-vi-hanh-chinh-259483.html truy cập lúc 7h40 ngày 12/8/2025.

[15] Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn – IPSARD (2021), “Chỉ dẫn địa lý và phát triển thương hiệu vùng – Những thách thức trong bối cảnh hội nhập”, truy cập tại https://ipsard.gov.vn/vn/searchw.aspx?utm_source=chatgpt.com, Truy cập lúc 7h50 ngày 12/8/2025.

[16] Nguyễn Thị Hạnh (2023), “Tác động của cải cách hành chính tới quyền sở hữu trí tuệ địa phương”. Tạp chí Luật học Phát triển bền vững, 11(4), tr. 58–67.

[17] Xem Điều 97 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022.