Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong Luật Hình sự Việt Nam

Đinh Văn Hoàng*
TS. Trần Xuân Thiên An *

Tóm tắt: Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2025) đã bảo vệ triệt để quyền của người dưới 16 tuổi trước các hành vi bạo lực và xâm phạm tình dục thông qua các tội danh cụ thể. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, bình luận về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (một trong những tội danh thuộc các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi) góp phần bảo vệ quyền của người dưới 16 tuổi.

Từ khóa: Bộ luật hình sự, hành vi dâm ô, người dưới 16 tuổi, tội dâm ô.

Đặt vấn đề

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm 1985[1], với tên gọi là Tội dâm ô đối với trẻ em nhưng lại quy định tại Điều 202b tại mục B Chương VIII (Các tội xâm phạm trật tự công cộng). Hiện nay, Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 146 BLHS năm 2015, thuộc Chương XIV (Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người). Việc các nhà làm luật ghi nhận Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi tại Chương XIV đã đánh dấu một bước tiến lớn về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền của người dưới 16 tuổi trước các hành vi xâm phạm tình dục nói riêng, góp phần bảo vệ triệt để quyền về tự do tình dục của người dưới 16 tuổi. Bởi vì, hậu quả do những hành vi xâm phạm tình dục đối với người dưới 16 tuổi gây ra không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ, sự phát triển bình thường về mọi mặt của nạn nhân mà còn khiến dư luận xã hội bức xúc, hoang mang trong một khoảng thời gian nhất định. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, làm rõ về các dấu hiệu cấu thành của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, với mục đích tạo cách hiểu thống nhất cho các chủ thể tiến hành tố tụng khi xử lý đối với tội danh này, góp phần tránh bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và làm oan, sai người vô tội.

1. Một số điểm mới trong quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

 So với quy định tại Điều 116 BLHS năm 1999, Điều 146 BLHS năm 2015 có một số điểm mới cụ thể như sau:
– BLHS năm 2015 đã cụ thể hoá tuổi của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội và tuổi của nạn nhân. Về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, khái niệm “người đã thành niên” được thay bằng “người đủ 18 tuổi trở lên”. Về tuổi của nạn nhân, khái niệm “trẻ em” được thay bằng “người dưới 16 tuổi”. Việc cụ thể hoá độ tuổi của chủ thể và nạn nhân thực hiện hành vi phạm tội giúp cho quy định trong BLHS và các văn bản hướng dẫn trở nên rõ ràng trong khung pháp lý hơn. Bên cạnh đó, việc quy định cụ thể độ tuổi của “trẻ em” thành “người dưới 16 tuổi” là phù hợp với Luật trẻ em năm 2016[2].
– Để bảo đảm thống nhất trong quy định cấu thành cơ bản của các tội danh trong BLHS nói chung và phù hợp với văn hóa pháp lý nước ta đối với Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, nhà làm luật chỉ quy định khái quát về “hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” và mô tả, giải thích hành vi phạm tội này trong những văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, khoản 1 Điều 146 BLHS bổ sung cụm từ “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” sau cụm từ “hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” nhằm xác định rõ hơn về hành vi dâm ô, cũng là dấu hiệu để phân biệt hành vi dâm ô với những hành vi xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi khác (như hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi, hành vi cưỡng dâm người dưới 16 tuổi…).

2. V các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

2.1. Khách thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi        

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm hại[3]. Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được luật hình sự bảo vệ trong Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là quyền bất khả xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi, cụ thể đó là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi. Đồng thời, hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi còn xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của dưới 16 tuổi, gây ảnh hưởng xấu đến những giá trị đạo đức của xã hội, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục và gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân.

Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận thuộc khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự[4]. Đối tượng tác động của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có điểm bắt buộc về độ tuổi, đó là người dưới 16 tuổi. Quy định này phù hợp với quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”, đồng thời cũng phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của trẻ em, bởi vì ở độ tuổi này, người dưới 16 tuổi (trẻ em) khó có khả năng tự vệ trước những hành vi bị xâm phạm về tình dục và cũng dễ bị dụ dỗ, mua chuộc. Trên cơ sở đó có thể khẳng định rằng, đối tượng tác động của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là: người dưới 16 tuổi, không phân biệt đó là bé trai hay bé gái.

2.2. Mặt khách quan của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả[5]; ngoài ra còn có những biểu hiệu khác của mặt khách quan như công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội…

Hành vi khách quan của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội. Một hành vi được coi là nguy hiểm cho xã hội nói chung phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ như: Độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc…trong đó có quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi, chính vì vậy Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được nhà làm luật xây dựng là tội phạm có cấu thành hình thức, nghĩa là trong mặt khách quan chỉ quy định hành vi là dấu hiệu bắt buộc. Người phạm tội chỉ cần thực hiện hết các hành vi được quy định trong luật là tội phạm hoàn thành, không cần hậu quả xảy ra. Hậu quả của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được coi là dấu hiệu định khung tăng nặng nhằm phân hóa trách nhiệm hình sự (TNHS) của người phạm tội trong các trường hợp phạm tội cụ thể hoặc dùng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

Hành vi khách quan của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thể hiện ở một trong các hành vi sau:

– Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu

Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019[6], dâm ô được hiểu là: “Hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục gồm một trong các hành vi sau đây:

+ Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

+ Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi…) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

+ Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

+ Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;

+ Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy… của người dưới 16 tuổi)”.

– Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác

Theo quy định này, người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô (như đã phân tích ở trên) nhưng không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, hành vi quan hệ tình dục khác, được hiểu như sau:

 Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây: a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác. (Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP).

Lưu ý:

Các hành vi nêu trên của người phạm tộimđều chưa hoặc không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi. Nếu sau khi thực hiện hành vi dâm ô, người phạm tội đã thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng.

Người dưới 16 tuổi có thể bị cưỡng ép, cũng có thể thuận tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp, người phạm tội yêu cầu người dưới 16 tuổi (cưỡng ép, thuận tình) tự thực hiện những hành vi trên lên bộ phân sinh dục (hoặc bộ phận nhạy cảm hoặc bộ phận khác trên cơ thể) của mình hoặc của người khác.

2.3. Mặt chủ quan của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố chủ yếu như: Lỗi (lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài của tội phạm), động cơ (động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý)[7], mục đích (kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội)[8]. Trong cấu thành tội phạm của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 146 BLHS năm 2015 thì chỉ có lỗi là dấu hiệu bắt buộc, “Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý[9]”. Người phạm Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Nghĩa là, khi thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, là trái pháp luật hình sự, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho người dưới 16 tuổi về danh dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về tình dục; nhưng họ vẫn mong muốn đều đó xảy ra nên đã sử dụng mọi phương thức để thực hiện hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Dấu hiệu động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Thông qua việc nghiên cứu các quy định của BLHS có thể thấy rằng, chủ thể của tội phạm bao gồm hai loại, đó là cá nhân và pháp nhân thương mại, trong Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi chúng ta chỉ xét chủ thể của tội phạm này là cá nhân. Tuy nhiên, không phải cá nhân nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, để được xác định là chủ thể của tội danh này, cá nhân phải là: Người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể[10].

Về độ tuổi, theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm trọng quy định tại một trong các điều…”. Việc quy định các mốc tuổi này xuất phát từ các kết quả nghiên cứu về sự phát triển thể chất và về tâm sinh lý của trẻ em tại Việt Nam, đồng thời có sự tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 146 BLHS năm 2015: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với…”. Như vậy, chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có thể là bất kỳ người nào (nam giới hoặc nữ giới hoặc người đồng tính) phải từ đủ 18 tuổi trở lên.

Về năng lực trách nhiệm hình sự, theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, theo quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015, có thể hiểu người có năng lực TNHS là người không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để xác định một người có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, vì năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực tự nhận thức được ý nghĩa xã hội (khả năng điều khiển hành vi đó của mình) do hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng như khả năng gánh chịu hậu quả là trách nhiệm hình sự từ hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình gây ra. Chỉ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Chính vì vậy, chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là bất kỳ người nào (nam giới hoặc nữ giới) có năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có thể là bất kỳ người nào (nam giới hoặc nữ giới hoặc người đồng tính) có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 18 tuổi trở lên.

Kết luận

             Bộ luật hình sự năm 2015 đã đạt được những thành công nhất định trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ đối tượng bị xâm hại trong các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó có Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng, chống Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, việc tạo ra cách hiểu thống nhất về các yếu tố cấu thành của tội phạm này là việc làm cần thiết hiện nay. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến tội danh trên cũng được xác định là vấn đề quan trọng được quan tâm nghiên cứu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trần Xuân Thiên An, “Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 69, tháng 7/2023.
  2. Hội đồng Thẩm phán TANDTC. 2019. Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 01/10/2019, Hà Nội;
  3. Nguyễn Đức Mai. 2018. Bình luận khoa học, Bộ luật Hình sự (Hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;
  4. Kim Nguyễn Hồng Minh, Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong Luật Hình sự Việt Nam, Hội thảo khoa học tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30/9/2022.
  5. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2004. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thông qua ngày 15/06/2004, Hà Nội;
  6. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2013. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thông qua ngày 28/11/2013, Hà Nội;
  7. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2016. Luật Trẻ em, thông qua ngày 5/4/2016, Hà Nội;
  8. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2017. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015, thông qua ngày 20/06/2017, Hà Nội.

* Giảng viên tập sự, Khoa Hình sự, Phân hiệu Đại học Kiểm sát tại TP.Hồ Chí Minh

* Giảng viên chính, Khoa Hình sự, Phân hiệu Đại học Kiểm sát tại TP.Hồ Chí Minh

[1] BLHS năm 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1997 (Luật số 57-LCTN ngày 10/5/1997).

[2] Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”

[3] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức

[4] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức.

[5] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức.

[6] Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

[7] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt NamPhần chung, Nxb Hồng Đức.

[8] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt NamPhần chung, Nxb Hồng Đức.

[9] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt NamPhần chung, Nxb Hồng Đức.

[10] Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 2019. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức.