Các tình tiết giảm nhẹ trong pháp luật hình sự và kiến nghị góp phần hoàn thiện

TS. Nguyễn Quốc Hân – Hiệu trưởng Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh  

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ một số điểm chưa cụ thể, chưa có sự thống nhất và còn gặp vướng mắc trong thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách thống nhất về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

1. Các tình tiết giảm nhẹ là những tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự (TNHS), phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Giá trị giảm nhẹ của các tình tiết này tùy thuộc vào mức độ, phạm vi, tác động của chúng trong từng vụ án hình sự [1].

Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết xảy ra trong vụ án hình sự, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng nhận thức của người có hành vi phạm tội trong quá trình diễn biến sự việc, ý thức ăn năn, hối cải và muốn cải tạo của người phạm tội. Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những dấu hiệu khách quan và chủ quan của hành vi phạm tội, không nằm trong cấu thành tội phạm nhưng những tình tiết này là một trong những căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt đối với tội phạm. Căn cứ vào quy định của pháp luật, có thể nhận thấy tình tiết giảm nhẹ TNHS có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, những tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được quy định với tính chất là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể thì trong quá trình xét xử, Tòa án không được xem xét nó như là tình tiết giảm nhẹ chung được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nghĩa là một tình tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cũng không thể được áp dụng hai lần cho một trường hợp phạm tội cụ thể.

Thứ hai, tình tiết giảm nhẹ TNHS chỉ là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội.

Thứ ba, pháp luật hiện nay không quy định cụ thể sự hiện diện của tình tiết giảm nhẹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt, sự hiện hữu của tình tiết nào thì được giảm TNHS đến đâu, điều đó phụ thuộc vào sự xem xét và cân nhắc của Tòa án.

Thứ tư, các tình tiết giảm nhẹ TNHS không cụ thể, rõ ràng mà chỉ là sự việc nhỏ xuất hiện trong quá trình xét xử, điều tra, truy tố, nên ngoài khoản 1 Điều 51 BLHS và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP, ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999 thì trong quá trình xét xử từng vụ án cụ thể, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.

Thứ năm, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết giảm nhẹ TNHS đến việc quyết định hình phạt của Tòa án là không giống nhau, không phải lúc nào cũng như án lệ, tình tiết đó, sự kiện giống vậy là khung hình phạt giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng đều nhau, có tình tiết ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội nhưng có tình tiết lại ảnh hưởng ít hơn. Không những thế, cùng một tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng có mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với những tội khác nhau.

2. Tình tiết giảm nhẹ TNHS là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ không chỉ là sự cụ thể hóa nguyên tắc nhân đạo, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự mà còn thể hiện được nội dung nguyên tắc cá thể hóa hình phạt – nguyên tắc đặc thù của luật hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội, tính nhân đạo trong lĩnh vực pháp luật hình sự. Trên thực tế, các nhà làm luật không quy định được các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ảnh hưởng đến mức độ nào đối với việc quyết định hình phạt, mà đưa các tình tiết này vào phần chung của luật hình sự nhằm khi áp dụng các tình huống cụ thể, vụ án cụ thể, Tòa án phải tự xác định, phán quyết theo ý chí, tình hình thực tế của vụ án.

Tuy nhiên, nghiên cứu về tình tiết giảm nhẹ hiện nay cho thấy, các quy định về tình tiết giảm nhẹ còn nhiều điểm chưa cụ thể, có cách hiểu chưa thống nhất, vẫn tồn tại các quan điểm khác nhau và gặp một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, cụ thể:

Thứ nhất, về tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51. Vấn đề đặt ra là nếu như bị cáo chưa phạm tội lần nào, có nhân thân tốt, tuy nhiên, lần này bị cáo phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng bị cáo có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm, thì có được áp dụng tình tiết này không. Thực tiễn xét xử, rất ít thẩm phán áp dụng tình tiết này trong trường hợp cụ thể nói trên. Vì vậy, cũng cần nêu ra để đánh giá thống nhất hơn thế nào là “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Thứ hai, về tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51. Có ý kiến đặt ra rằng trong tội giết người mà người đó không chết, hiếp dâm nhưng chưa giao cấu được, thì có được áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” hay không? Theo quan điểm của tác giả, chưa gây thiệt hại là hậu quả cuối cùng mà người phạm tội hướng đến nhưng vì lý do nào đó mà hậu quả chưa xảy ra hoặc hậu quả không lớn thì vẫn được áp dụng tội danh tương ứng. Tuy nhiên, những tội cấu thành hình thức như tội “cướp”, “hiếp” còn phải xem xét đến hậu quả về tinh thần, tính mạng, sức khỏe và hậu quả cho xã hội như thế nào để còn xem xét áp dụng.

Thứ ba, về tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51. Do điều luật không quy định mức độ bồi thường nên có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, bồi thường một phần dù nhỏ thì vẫn áp dụng tình tiết này; có quan điểm lại cho rằng, phải bồi thường đáng kể mới áp dụng tình tiết này; lại có quan điểm cho rằng, nếu bị cáo đã bán hết tài sản nhưng cũng chỉ bồi thường được một phần rất nhỏ so với hậu quả xảy ra thì cũng phải áp dụng. Trên thực tế hiện nay, nhiều vụ án gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng, như vậy, nếu bị cáo bồi thường vài triệu mà được áp dụng điểm b thì không thỏa đáng. Vấn đề này còn phải tùy thuộc vào mức thiệt hại, khả năng kinh tế của bị cáo, nếu bị cáo đã bán hết tài sản để bồi thường được một phần rất nhỏ thì nên xem xét áp dụng tình tiết “ăn năn, hối cải” mà không áp dụng tình tiết bồi thường thì hợp lý hơn không. Có trường hợp tài sản trộm cắp đã được bị cáo trả lại hết sau khi chiếm đoạt thì đây không phải là tiền bồi thường, không nên áp dụng tình tiết “tự nguyện bồi thường” mà áp dụng tình tiết “khắc phục hậu quả” cho bị cáo mới phù hợp.

Thứ tư, về tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51. Trường hợp bị cáo đã khai hết toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội nhưng họ cho rằng, hành vi của họ không phạm tội, thì có thẩm phán không áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo” là không chính xác, bởi lẽ, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ sự việc, nhưng do nhận thức về pháp luật nên bị cáo không hiểu hành vi của mình là phạm tội. Thành khẩn khai báo phải được hiểu là không khai gian dối điều gì có liên quan đến hành vi phạm tội. Có trường hợp tại phiên tòa, bị cáo không khai báo trung thực mà phải đấu tranh, dùng mọi biện pháp, nghiệp vụ đến lúc bị cáo thấy không thể chối cãi được mới nhận tội nhưng vẫn áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo” có phù hợp không. Hay người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo không thể chối tội mà phải khai ra, thì có áp dụng tình tiết này không. Quan điểm của hầu hết thẩm phán là vẫn áp dụng có lợi cho bị cáo và căn cứ vào mức độ thành khẩn đến đâu, thời điểm nào để áp dụng hình phạt cho tương xứng.

Thứ năm, về tình tiết “phạm tội do lạc hậu” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51. Việc xác định nguyên nhân của nhận thức lạc hậu còn chưa có quy định cụ thể rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất, chặt chẽ và thiếu tính thuyết phục. Chưa có sự phân biệt rạch ròi trong mối quan hệ giữa nhận thức lạc hậu và hành vi phạm tội.

Thứ sáu, theo khoản 2 Điều 51, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi “đầu thú” là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Như vậy, sau khi người phạm tội biết rằng việc mình phạm tội không thể che giấu và trốn tránh nên đến cơ quan Công an để khai báo sự việc, lúc này, Công an sẽ tiến hành lập biên bản về việc người phạm tội đầu thú. Người phạm tội sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51. Đây là chính sách nhân đạo của Nhà nước ta trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với người phạm tội, tạo điều kiện cho họ được hưởng những tình tiết có lợi nhất. Nhưng thực tiễn xét xử cũng gặp bất cập trong việc áp dụng khi trong cùng một vụ án, có bị cáo được áp dụng, có bị cáo không được áp dụng.

3. Từ quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại Điều 51 BLHS, tác giả kiến nghị hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách thống nhất về các tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau:

Một là, cần sửa đổi BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng bổ sung quy định giải thích thuật ngữ và hướng dẫn tiêu chí xác định cụ thể đối với các tình tiết giảm nhẹ chưa được quy định rõ ràng nhằm tạo khung pháp lý vững chắc cho việc áp dụng các tình tiết này, tránh tình trạng áp dụng pháp luật chưa thống nhất trong thực tiễn. Cụ thể:

Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS hiện hành cần có quy định rõ ràng về nguyên nhân và điều kiện để xác định một người là có nhận thức lạc hậu, trong đó, nguyên nhân của nhận thức lạc hậu phải là khách quan, như không được học tập, không có những điều kiện thực tế để nhận biết được giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu. Thực tế, có rất nhiều đối tượng mặc dù có điều kiện để học tập nhưng không học, có điều kiện để tiếp thu những tiến bộ xã hội nhưng bảo thủ không tiếp thu… những đối tượng này cần thiết phải nghiêm trị theo đúng quy định của pháp luật.

Điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS cần có hướng dẫn về việc xác định thiệt hại không lớn cần dựa vào mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế cho người bị thiệt hại và cho xã hội (cả thiệt hại vật chất, thể chất, tinh thần), các quy định cụ thể của từng loại tội phạm, tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm trong từng trường hợp cụ thể. Riêng thiệt hại về tinh thần thì nên hạn chế áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm h khoản 1 Điều 51 và chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ này khi thiệt hại đó không ảnh hưởng đến hoạt động, sinh hoạt bình thường của người bị thiệt hại. Việc xác định thiệt xảy ra không lớn không phụ thuộc vào loại tội mà người phạm tội vi phạm, không phụ thuộc đó là tội phạm cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức, mà có thể chỉ ít nhiều phụ thuộc vào tính chất của tội phạm là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng [2].

Để thực hiện tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” và tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, đề xuất cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện, theo đó trường hợp bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả nhưng bị hại không chấp nhận thì vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Bổ sung một số tình tiết giảm nhẹ bằng việc quy định chính thức tình tiết giảm nhẹ “Đầu thú”, tình tiết “Người bị hại cũng có lỗi”, tình tiết “Thiệt hại do lỗi của người thứ ba”, tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, tình tiết “Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”.

Hai là, về phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra. Đây là một trường hợp có nhiều quan điểm khác nhau trong cách hiểu và áp dụng. Có quan điểm cho rằng tình tiết này thực chất là tình tiết “phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém” được quy định trong BLHS năm 1985. Đến BLHS năm 1999 đã bỏ đi tình tiết này và hiện nay BLHS 2015 đã quy định lại nhưng có sửa đổi thêm điều kiện là “không phải do lỗi của mình gây ra”. Trong đó, tình tiết này được hiểu là “trường hợp thực hiện hành vi phạm tội do trình độ non kém, không có hiểu biết nhất là trong các lĩnh vực quản lý hành chính, môi trường, kinh tế, ngân hàng, tín dụng, công nghệ viễn thông…”. Cách giải thích này xuất phát từ chính tên gọi của tình tiết giảm nhẹ “hạn chế khả năng nhận thức” và cho rằng hạn chế khả năng nhận thức chỉ là sự thiếu hiểu biết của người phạm tội về một lĩnh vực nằm ngoài khả năng của họ. Theo quan điểm của tác giả thì đây là trường hợp khi thực hiện tội phạm, người phạm tội đang trong tình trạng nhận thức về hành vi phạm tội của mình một cách không đầy đủ. Tuy nhiên, tình trạng này chỉ là nhất thời hoặc do khách quan mang lại mà không phải do ý muốn chủ quan của người đó. Vì vậy, theo tác giả nên quy định thống nhất một cách hiểu ở một văn bản hướng dẫn để Tòa án các cấp có thể áp dụng theo đúng tinh thần của pháp luật. Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, tình tiết giảm nhẹ thường là những tình tiết mở, mang tính có lợi cho người phạm tội nên việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này sẽ phụ thuộc vào quan điểm của mỗi Tòa. Điều này giúp Tòa án có thể linh động hơn trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này nói riêng và các tình tiết giảm nhẹ khác nói chung.

Ba là, cần xây dựng án lệ về các trường hợp áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS. Án lệ đã bổ sung giúp cho luật thành văn trở nên gắn liền với thực tiễn hơn bao giờ hết. Khi xảy ra tranh chấp, các Tòa án có cơ sở để xét xử dựa trên một khuôn khổ đã có, những khuôn khổ này nếu không được sử dụng trong phán quyết thì cũng là một nguồn tài liệu tham khảo rất có ích. Việc áp dụng án lệ ngoài ý nghĩa giải quyết một vụ án cụ thể còn thiết lập một tiền lệ để giải quyết những vụ án tương tự sau này, do đó, sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp tiên lượng được kết quả của các vụ tranh chấp, tiết kiệm công sức của các thẩm phán, người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, tạo ra sự công bằng trong xã hội [3]./.

Nguồn: Tạp chí An ninh nhân dân , số 141 (02/2024)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Phan Hà Chi (2023), Một số vướng mắc về tình tiết giảm nhẹ TNHS và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử.
  2. Nguyễn Trọng Tuấn, Phạm Thị Mai (2021), Hoàn thiện quy định về các tình tiết giảm nhẹ trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử.
  3. Nguyễn Thị Mộng Tuyền (2020), Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.