CHUYÊN ĐỀ

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI TRONG CÁC VỤ ÁN KINH TẾ LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC VỤ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN GÂY ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC ĐỂ TRỤC LỢI (ĐIỀU 358), TỘI GIẢ MẠO CÔNG TÁC (ĐIỀU 359) VÀ TỘI LỢI DỤNG ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ TRỤC LỢI (ĐIỀU 366) BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

TS. Nguyễn Văn Khoát
Hiệu trưởng Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh

1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong các vụ án kinh tế liên quan đến chức vụ

1.1. Một số khái niệm có liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong các vụ án kinh tế có liên quan đến chức vụ

Trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009), có nghiên cứu và tính đến các quan hệ xã hội mới phát sinh và sẽ phát sinh trong tương lai gần cần phải điều chỉnh bằng pháp luật hình sự cũng như tiếp thu có chọn lọc các quy định của các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và kinh nghiệm lập pháp của một nước phát triển trên thế giới, BLHS năm 2015 (sửa đổi năm 2017) đã bổ sung một số điều luật mới nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS trong đó có bổ sung một Chương mới (Chương XI) về những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại phần chung gồm 33 điều luật quy định về các tội phạm cụ thể mà pháp nhân thương mại phại chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội tại các chương như Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, Chương XXI, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.

Đối với các nước phát triển trên thế giới vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội đã được quy định trong các BLHS hoặc các văn bản pháp luật khác từ những năm cuối thể kỷ XX, tuy nhiên đối với Việt Nam, vấn đề pháp nhân thương mại phạm tội, trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội, đường lối xử lý… là những vấn đề mới được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Chính vì vậy, cần phải được nghiên cứu trên nhiều phương diện và dưới nhiều góc độ khác nhau để bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tóa án (TA) trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với các vụ án do pháp nhân thương mại thực hiện mà trước hết là phải nhận thức đúng về khái niệm pháp nhân thương mại phạm tội.

Một là, khái niệm pháp nhân.

Pháp nhân là một thuật ngữ dụng để phân biệt với thể nhân, theo đó, pháp nhân là một tổ chức hội đủ các điều kiện do pháp luật quy định; Thể nhân (tức là cá nhân) là một con người, một cá nhân riêng biệt. Pháp nhân và thể nhân đều có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.

Theo quy định tại tại Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

– Được thiết lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

– Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 Bộ luật này (Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp luật được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định của pháp nhân; Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật).

– Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng trài sản của mình.

– Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Hai là, khái niệm pháp nhân thương mại.

Theo quy định tại Điều 75 BLDS năm 2015 thì pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiến lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.

– Pháp nhân thương mại bào gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.

– Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của bộ luật này, luật doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Ba là, khái niệm pháp nhân thương mại phạm tội.

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi; bổ sung năm 2017) không đưa ra khái niệm pháp nhân thương mại phạm tội nhưng căn cứ vào khái niệm tội phạm tại Điều 8 BLHS thì lần đầu tiên Bộ luật quy định có hai chủ thể của tội phạm, đó là: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, về trách nhiệm hình sự thì người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tất cả tội phạm được quy định tại phần các tội phạm còn đối với pháp nhân thương mại phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong phạm vi các tội phạm theo quy định tại Điều 76 BLHS.

Như vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự, căn cứ và Điều 8, 74, 75, 76 BLHS có thể đưa ra khái nhiệm pháp nhân thương mại phạm tội như sau:

– Pháp nhân thương mại phạm tội là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 76 BLHS do lỗi có ý hoặc vô ý xâm phạm trật tự  quản lý kinh tế, môi trường, an toàn công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mà theo quy định của BLHS phải chịu trách nhiệm hình sự.

– Việc quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm trong BLHS là cơ sở để quy định những nội dung khác về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội trong BLHS.

1.2. Những quy định chung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội

1.2.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội và nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Thứ nhất, cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội.

Khoản 2 Điều 2 BLHS đã xác định cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Thứ hai, nguyên tắc xử lý.

Khoản 2 Điều 3 quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

– Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

– Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

– Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

– Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

Như vậy, BLHS quy định cụ thể bốn nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Chính vì vậy, trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án do pháp nhân thương mại phạm tội, đòi hỏi Kiểm sát viên được phân công phải quán triệt và thực hiện đầy đủ bốn nguyên tắc này.

1.2.2. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Theo quy đinh tại các Điều 5, 6, 7 thì các quy định của BLHS liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ áp dụng đối với những tội phạm do pháp luật thương mại gây ra trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có thể được áp dụng đối với pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm và pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này, trong trường hợp hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm phạm đến lợi ích của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên…

Những quy định trên đây về hiệu lực truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội là xuất phát từ tình hình thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và yêu cầu nội luật hóa (hình sự hóa) một số quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhằm bảo đảm cho nhà nước ta bảo vệ được chủ quyền quốc gia và bảo đảm cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp nhân thương mại trong và ngoài nước bình đẳng trước pháp luật và góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

1.2.3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội

Bộ luật hình sự không có quy định riêng về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự riêng đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 thì thời hiệu áp dụng chung cho cá nhân và pháp nhân thương mại phạm tội được quy định cụ thể như sau:

– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

– 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

– Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

1.2.4. Phạm vi áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Theo quy định tại Điều 74 BLHS thì pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định tại Chương XI; theo quy định khác của Phần thứ nhất BLHS không trái với quy định của Chương XI.

Vấn đề này có nghĩa là, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do pháp nhân thương mại phạm tội Kiểm sát viên trước hết phải căn cứ toàn bộ các quy định tại Chương XI BLHS, đồng thời phải nghiên cứu, xem xét các quy định khác dành riêng cho pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại phần chung của BLHS và các quy định khác áp dụng chung cho cả cá nhân và pháp nhân phạm tội nhưng không được trái với các quy định tại Chương XI.

1.2.5. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ 04 điều kiện. Tuy nhiên, trong 04 điều kiện thì có 03 điều kiện mang tính đặc thù khi xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội và 01 điều kiện áp dụng chung cho cá nhân và pháp nhân thương mại phạm tội.

Một là, hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại.

Điều kiện này được hiểu là hành vi phạm tội do một người hoặc một số người cụ thể (người lãnh đạo, người điều hành pháp nhân hoặc được pháp nhân ủy quyền) nhân danh (hay dưới danh nghĩa) pháp nhân thương mại thực hiện. Nếu những người này thực hiện hành vi phạm tội nhưng không nhân danh pháp nhân thương mại thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.

Hai là, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại.

Điều kiện này được hiểu là khi một người hoặc một số người nhân danh pháp nhân thương mại (do pháp nhân thương mại giao hoặc ủy quyền) thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích của pháp nhân thương mại chứ không phải vì lợi ích cá nhân của họ.

Như vậy, trường hợp một người hoặc một số người tuy nhân danh pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì lợi ích của cá nhân họ thì những người này phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện nếu hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS.

Tuy nhiên, trường hợp một người hoặc một số người tuy nhân danh pháp nhân thương mại ngoài việc thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích chung của pháp nhân thương mại, đồng thời lợi dụng danh nghĩa pháp nhân thương mại để thực hiện những hành vi phạm tội vượt quá vì lợi ích cá nhân của họ thì phải phân biệt rõ hành vi phạm tội nào là nhân danh pháp nhân thương mại thực hiện vì lợi ích chung của pháp nhân thương mại và hành vi nào vượt ra ngoài lợi ích của pháp nhân thương mại để xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và trách nhiệm hình sự của cá nhân trong việc lợi dụng danh nghĩa pháp nhân thương mại để thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích riêng.

Ba là, hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.

Điều kiện này được hiểu là hành vi phạm tội của một người hoặc một số người có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Sự chỉ đạo, điều hành được thể hiện ở việc đề ra chủ trương, kế hoạch, tổ chức thực hiện của những người đứng đầu pháp nhân thương mại hoặc của tập thể lãnh đạo pháp nhân thương mại như: Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị… Trường hợp tuy không có sự chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo của pháp nhân thương mại nhưng lại có sự chấp thuận của những người đứng đầu pháp nhân thương mại thì pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện. Ví dụ, Nguyễn Văn A là Phó giám đốc doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp thực hiện hành vi trốn thuế cho doanh nghiệp, tuy không có sự chỉ đạo, điều hành của Ban lãnh đạo doanh nghiệp nhưng việc thực hiện hành vi phạm tội được Ban lãnh đạo doanh nghiệp đồng ý (chấp thuận).

Bốn là, Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 BLHS.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS thì việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do pháp nhân thương mại phạm tội, Kiểm sát viên được phân công cần lưu ý những vấn đề sau đây:

– Bốn điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại có liên kết chặt chẽ với nhau, nếu thiếu một trong 04 điều kiện đó thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.

– Phải làm rõ có hay không có hành vi phạm tội vượt quá của một người hay một nhóm người nhân danh pháp nhân thương mại phạm tội. Nếu có thì phải phân định rõ hành vi phạm tội vượt quá để xác định đúng trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và trách nhiệm hình sự của cá nhân.

– Ngoài việc xác định hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại thì còn phải làm rõ có hay không có hành vi của một người hay một nhóm người lợi dụng danh nghĩa pháp nhân thương mại để phạm tội vì lợi ích riêng của họ. Nếu có phải làm rõ hành vi phạm tội đó thuộc điều nào, khoản nào của BLHS.

1.3. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong các vụ án kinh tế liên quan đến chức vụ

1.3.1. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo quy định tại Điều 76 BLHS thì pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các Điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 BLHS.

Trong số 33 tội phạm quy định tại các điều luật nêu trên có 15 tội quy định yếu tố định khung tăng nặng tại Khoản 2 là “lợi dụng chức vụ quyền hạn”.

1.3.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong các vụ án kinh tế liên quan đến chức vụ

Nghiên cứu 33 điều luật quy định các tội phạm thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, trong đó có 15 có tội quy định yếu tố định khung tăng nặng tại khoản 2 là “lợi dụng chức vụ quyền hạn” cho thấy, cả 33 tội phạm nêu trên đều được áp dụng cho cả cá nhân và pháp nhân thương mại phạm tội. Mặc dù vậy, trong từng điều luật các nhà lập pháp đều có sự tách biệt giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội và pháp nhân phạm tội.

Nghiên cứu 15 điều luật quy định các tội phạm thuộc phạm vi trách nhiệm hình sự của cá nhân và cả pháp nhân thương mại có yếu tố định khung tăng nặng tại Khoản 2 là “lợi dụng chức vụ quyền hạn” bao gồm các điều: 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 234, 243, 244, 324 BLHS cho thấy, không có một tội phạm nào có quy định pháp nhân thương mại phạm tội có yếu tố định khung tăng nặng là “lợi dụng chức vụ quyền hạn”.

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về các tội phạm được quy định tại Điều 75 BLHS, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, Kiểm sát viên được phân công chỉ áp dụng phần quy định của BLHS về pháp nhân thương mại phạm tội.

Chỉ được áp dụng tình tiết tăng nặng định khung là “lợi dụng chức vụ quyền hạn” trong trường hợp người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc một nhóm người có chức vụ quyền hạn nhân danh pháp nhân thương mại và lợi dụng chức vụ quyền hạn để thực hiện hành vi phạm tội đã được quy định tại 15 điều luật nói trên nhưng vì lợi ích cá nhân nếu hành vi đó đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã vi phạm.

Như vậy, đặc điểm chung của 33 điều luật quy định phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội là những quy định được áp dụng song song giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội với trách nhiệm hình sự của pháp nhân phạm tội. Ví dụ: Điều 188 BLHS – Tội buôn lậu, tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 quy định trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội buôn lậu; Khoản 6 Điều 188 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội nhưng phải dựa trên những dấu hiệu pháp lý của hành vi và hậu quả gây ra được quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 188 là những quy định về cá nhân phạm tội. Tuy nhiên, có loại trừ một số tình tiết định khung tăng nặng thuộc phạm vi trách nhiệm hình sự của cá nhân như: Phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ quyền hạn…

1.3.3. Trách nhiệm hình sự của người có chức vụ quyền hạn trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội

Khoản 2 Điều 75 BLHS quy định: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Việc xác định trách nhiệm hình sự của cá nhân trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp cần phải được nghiên cứu, phân tích, làm rõ để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có sự nhận thức thống nhất và áp dụng đúng quy định này. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện nay chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể của liên ngành tư pháp Trung ương và thực tiễn cũng chưa có vụ án nào được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, dưới góc độ của khoa học Luật hình sự thì quy định tại khoản 2 Điều 75 “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” có thể được hiểu như sau:

Một là, trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 33 tội quy định tại Điều 76 BLHS khi có đủ 04 điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 75 BLHS. Tuy nhiên, khi khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử pháp nhân thương mại phạm tội thì CQĐT, VKS, TA cần phải làm rõ trách nhiệm của cá nhân có chức vụ quyền hạn của pháp nhân thương mại như: Các thành viên của Hội đồng quản trị; Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc Tổng công ty; Giám đốc, các Phó giám đốc công ty… đã đưa ra các quyết định, thực hiện việc chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận để pháp nhân thương mại thực hiện các hành vi (tiến hành các hoạt động) cụ thể dẫn đến pháp nhân thương mại phạm tội. Nếu việc ban hành quyết định hay hoạt động chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của những người giữ chức vụ quyền hạn của pháp nhân thương mại mà có đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS thì những cá nhân này cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Ví dụ, ông Nguyễn Văn A được Doanh nghiệp B chuyên kinh doanh vàng bạc, kim khí quý, đá quý thuê làm giám đốc điều hành của pháp nhân. Trong quá trình hoạt động của pháp nhân thương mại ông B được lãnh đạo của pháp nhân giao nhiệm vụ chuyển 500 ngàn USD giao cho Doanh nghiệp C ở nước ngoài, đồng thời nhận 250 lượng vàng từ Doanh nghiệp C chuyển về cho Doanh nghiệp B (việc đi, về không qua của khẩu, không làm thủ tục hải quan mà qua lối mòn). Sau khi nhận tiền của Doanh nghiệp B ông A đã đi theo lối mòn vượt biên giới sang giao tiền cho Doanh nghiệp C và nhận 250 lượng vàng từ Doanh nghiệp C trở về nước theo lối mòn để giao cho Doanh nghiệp B. Trên đường từ biên giới trở về Doanh nghiệp B, ông A bị cơ quan chức năng phát hiện và bắt giữ, pháp nhân thương mại B bị khởi tố về tội buôn lậu theo quy định tại điểm c, khoản 6 Điều 188 BLHS. Trường hợp này ông A biết rõ việc chuyển 500 ngàn USD giao cho Doanh nghiệp C ở nước ngoài và nhận 250 lượng vàng từ Doanh nghiệp C chuyển về cho Doanh nghiệp B (việc đi, về không qua của khẩu, không làm thủ tục hải quan mà qua lối mòn) là trái pháp luật mặc dù được Doanh nghiệp B đồng ý giao nhiệm vụ cho ông. Trong trường hợp này, ngoài việc Doanh nghiệp B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu thì ông A cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội này với lỗi cố ý.

Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm hình sự của cá nhân trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 75 BLHS “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” cũng cần phải được hiểu rằng quy định này không phải bắt buộc áp dụng trong mọi trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự thì cá nhân nhân danh pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự mà quy định này có thể chỉ áp dụng trong một số trường hợp cụ thể nhất định như hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại là hành vi đặc biệt nguy hiểm, gây thiệt hại lớn về nhiều mặt đối với nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, đồng thời gây ra bức xúc trong quần chúng nhân dân và được dư luận xã hội quan tâm.

Mặt khác, cũng cần phải hiểu quy định tại khoản 2 Điều 75 BLHS “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân” còn bao hàm cả ý nghĩa mang tính răn đe phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ đầu việc lợi dụng danh nghĩa pháp nhân thương mại, vì lợi ích chung của pháp nhân thương mại để thực hiện hành vi phạm tội.

1.4. Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định cụ thể các loại hình phạt, các biện pháp tư pháp và điều kiện áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Phạt tiền (Điều 77); đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78); đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79); cấm kinh doanh, cấm hoạt động trên một số lĩnh vực nhất định (Điều 80); cấm huy động vốn (Điều 81); các biện pháp tư pháp (Điều 82).

Các loại hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại gây ra trên cơ sở Điều 28 và Điều 83 BLHS.

2. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), Tội giả mạo công tác (Điều 359), Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 366) Bộ luật hình sự

2.1. Dấu pháp lý của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358)

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi được quy định là tội danh riêng trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung lần thứ tư năm 1997. Việc tách tội này ra khỏi Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi là cần thiết nhằm tạo cơ sở phân hoá được trách nhiệm hình sự, vì hai tội phạm này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

Bộ luật hình sự năm 1999, Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi đã xác định các dấu hiệu như sau: 1) Chủ thể của tội này là người có chức vụ, quyền hạn và do đó có ảnh hưởng nhất định đối với người có chức vụ, quyền hạn khác; 2) Người phạm tội đã lợi dụng ảnh hưởng do có chức vụ, quyền hạn để nhận lợi ích vật chất (tiền, hiện vật hoặc lợi ích vật chất khác) cho mình. Đánh đổi cho việc nhận lợi ích vật chất này, người phạm tội đã phải hoặc sẽ phải tác động đến người có chức vụ, quyền hạn khác để người này giải quyết công việc cho người đã đưa lợi ích vật chất cho mình; 3) Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi chỉ bị coi là tội phạm khi lợi ích vật chất mà chủ thể nhận có giá trị từ 500.000 đồng trở lên hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chủ thể đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm …

Điều 358 BLHS năm 2015 quy định: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đòi, nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây dưới mọi hình thức để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

b) Lợi ích phi vật chất.

Cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại Điều 358 như đã viện dẫn có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản như sau:

– Khách thể của tội phạm:

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi trực tiếp xâm hại đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

– Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu đặc trưng sau:

Hành vi tiền đề được mô tả là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhận (hoặc sẽ nhận) lợi ích vật chất từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc lợi ích phi vật chất, mục đích của việc đưa và nhận lợi ích là nhằm tác động đến người có chức vụ, quyền hạn khác để người này giải quyết công vụ có lợi cho bên cung cấp lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất đó.

Cấu thành cơ bản của tội phạm trên theo quy định của BLHS 1999 thì đối tượng mà người phạm tội nhận từ người thứ ba là vật chất, nhưng BLHS 2015 mở rộng thêm đối tượng là lợi ích phi vật chất. Từ thực tiễn cho thấy, hành vi gây ảnh hưởng đến người có chức vụ, quyền hạn để người đó làm sai lệch công vụ của họ có thể diễn giải lợi ích phi vật chất như: Người phạm tội sẽ được cân nhắc đề bạt, bổ nhiệm; hoặc nhằm tạo mối quan hệ tốt với với họ hàng và những người xung quanh; hoặc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thân của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhận những ưu đãi của Nhà nước; hoặc có thể là được đáp ứng về nhu cầu tình dục…

 Hành vi tiếp theo sau khi nhận lợi ích là người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người có trách nhiệm thực thi công vụ để trục lợi. Từ hành vi này có thể lý giải: Chủ thể phải có chức vụ, quyền hạn “đủ mạnh” để có thể gây ảnh hưởng đối với người đang thực thi công vụ nhằm làm cho công vụ được thực hiện theo ý chí của người phạm tội. Khi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội không ngang hàng với người đang thực thi công vụ, vị trí cũng không tương xứng thì việc người phạm tội nhận tiền, lợi ích từ người khác rồi dùng quan hệ quen biết, đồng nghiệp để gây ảnh hưởng làm cho người thực thi công vụ giải quyết công việc theo ý chí của họ, thì cần xem hành vi gây ảnh hưởng trong trường hợp này phạm vào tội danh khác (như Tội môi giới hối lộ (Điều 365) hoặc Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366). Vì vậy, việc đánh giá, so sánh, xác định về mối quan hệ và sự ảnh hưởng của người phạm tội (người có chức vụ, quyền hạn) với người đang có trách nhiệm thực thi công vụ liên quan đến người cung cấp lợi ích là việc làm rất cần thiết mà Kiểm sát viên phải lưu ý khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này để xác định đúng tội danh của hành vi.

– Chủ thể của tội phạm: Là chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật thì mới có điều kiện để thực hiện tội phạm. Từ nội dung này có thể hiểu chủ thể phải là cán bộ, công chức, khi đó hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của chủ thể để gây ảnh hướng đối với người có chức vụ, quyền hạn khác mới có thể phát huy hiệu quả trên thực tế.

– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân.

2.2. Dấu pháp lý đặc trưng của Tội giả mạo công tác (Điều 359)

Điều 359 BLHS năm 2015 quy định: Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;

b) Làm, cấp giấy tờ giả;

c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

Cấu thành Tội giả mạo công tác quy định tại Điều 359 như đã viện dẫn có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản như sau:

– Khách thể của tội phạm: Tội giả mạo trong công tác xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội mà kinh phí, tài chính đảm bảo cho hoạt động có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.

– Mặt khách quan: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi được nêu tại Điều luật. Cụ thể: Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu để phân biệt với một số tội phạm khác (như Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức – Điều 340, Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức – Điều 341, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Điều 174…).

Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào dấu hiệu có chức vụ, quyền hạn của người phạm tội là chưa đủ cơ sở để làm rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm quy định tại Điều 359 và những tội phạm khác như đã nêu trên. Một dấu hiệu rất quan trọng là ngoài chức vụ, quyền hạn, thì người phạm tội còn phải là người có công vụ liên quan đến việc làm, ban hành các loại bằng cấp, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức hoặc họ là người có trách nhiệm tham gia thực hiện các chỉ đạo, quyết định bằng văn bản của cấp trên được giao thực hiện nhiệm vụ… sau đó, người phạm tội lợi dụng quá trình tham gia thực thi công vụ đã sửa chữa, làm sai lệch hoặc làm giả hoặc giả chữ ký của người có thẩm quyền để đưa các loại bằng cấp, giấy tờ, tài liệu vào thực tế, từ đó tác động và gây ra thiệt cho các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Ví dụ như cán bộ Phòng Lao động, Thương binh, Xã hội huyện giả chữ ký của Trưởng phòng để hợp thức hóa hồ sơ cho người thân của mình là Thương bệnh binh nhằm tạo điều kiện cho người thân được hưởng chính sách trợ cấp của Nhà nước một cách trái pháp luật.

– Chủ thể của tội phạm: Là chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật thì mới có điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội. Từ nội dung này có thể hiểu chủ thể phải là cán bộ, công chức, khi đó chủ thể mới có điều kiện thuận lợi thực hiện hành vi phạm tội dễ dàng và khó bị phát hiện.

– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân. Chủ thể nhận thức được hành vi của mình là trái luật, nhưng vì nhằm thu lợi bất chính hoặc vì nhằm thỏa mãn những vấn đề cá nhân như nhằm tạo thuận lợi cho bản thân; hoặc người thân quen trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm; hoặc nhằm tạo ra những thuận cho người thân trong sản xuất, kinh doanh, hưởng chính sách trợ cấp, ưu đãi của Nhà nước; hoặc nhằm thỏa mãn sự ích kỷ của bản thân mình… mà chủ thể bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội.

2.3. Dấu pháp lý đặc trưng của của Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366 Bộ luật hình sự)

Điều 291 BLHS năm 1999 quy định: Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm tram nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

Như vậy, Tội lợi dụng ảnh hưởng với người chức vụ, quyền để trục lợi theo quy định tại Điều 291 của BLHS năm 1999 đã xác định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản cụ thể là: 1) Chủ thể của tội này là chủ thể thường, bất kỳ người nào lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn; 2) Người phạm tội đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để nhận lợi ích vật chất (tiền, hiện vật hoặc lợi ích vật chất khác) cho mình. Đánh đổi cho việc nhận này, người phạm tội đã hoặc sẽ phải tác động đến người có chức vụ, quyền hạn để người này giải quyết công việc có lợi cho người đã đưa lợi ích vật chất; 3) Hành vi lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi chỉ bị coi là tội phạm khi lợi ích vật chất mà chủ thể nhận có giá trị từ 500.000 đồng trở lên hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chủ thể đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm…

Điều 366 BLHS 2015 quy định: Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận bất kỳ lợi ích nào dưới mọi hình thức thuộc một trong các trường hợp sau đây hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất.

Cấu thành Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi quy định tại Điều 366 như đã viện dẫn có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản như sau:

– Khách thể của tội phạm:

Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi trực tiếp xâm hại đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

– Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu đặc trưng sau:

Hành vi tiền đề được mô tả là hành vi của người có quan hệ thân quen với người có chức vụ, quyền hạn nhận (hoặc sẽ nhận) lợi ích vật chất từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc lợi ích phi vật chất, mục đích của việc đưa và nhận lợi ích là nhằm tác động đến người có chức vụ, quyền hạn để người này giải quyết công vụ có lợi cho bên cung cấp lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất đó.

Cấu thành cơ bản của tội phạm trên theo quy định của BLHS 1999 thì đối tượng mà người phạm tội nhận từ người thứ ba là vật chất, nhưng BLHS 2015 mở rộng thêm đối tượng là lợi ích phi vật chất. Từ thực tiễn hành vi gây ảnh hưởng đến người có chức vụ, quyền hạn để người đó làm sai lệch công vụ của họ có thể diễn giải lợi ích phi vật chất như: Người phạm tội sẽ được cân nhắc đề bạt, bổ nhiệm; hoặc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thân của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhận những ưu đãi của Nhà nước; hoặc có thể là được đáp ứng về nhu cầu tình cảm…

 Hành vi tiếp theo sau khi nhận lợi ích là người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người có trách nhiệm thực thi công vụ để trục lợi. Hành vi này có thể lý giải: Chủ thể phải có quan hệ với người có chức vụ, quyền hạn như người thân thích, đồng nghiệp hoặc là bạn bè… để có thể gây ảnh hưởng đối với người đang thực thi công vụ nhằm làm cho công vụ được thực hiện theo ý chí của người phạm tội. Khi người phạm tội không thuộc trường hợp những quan hệ như trên với người đang thực thi công vụ, thì việc người phạm tội nhận tiền, lợi ích từ người khác rồi dùng quan hệ quen biết, đồng nghiệp để gây ảnh hưởng làm cho người thực thi công vụ giải quyết công việc theo ý chí của họ thì cần xem hành vi gây ảnh hưởng trong trường hợp này phạm vào tội danh khác (như Tội môi giới hối lộ hoặc Tội lừa đảo). Vì vậy, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này Kiểm sát viên cần lưu ý: Việc đánh giá, so sánh, xác định về mối quan hệ và sự ảnh hưởng của người phạm tội với người đang có trách nhiệm thực thi công vụ liên quan đến người cung cấp lợi ích là việc làm rất cần thiết để xác định đúng tội danh của hành vi phạm tội đã xảy ra.

– Chủ thể của tội phạm: Là chủ thể thường. Tuy nhiên, người phạm tội phải có quan hệ gia đình hoặc quan hệ xã hội với ngưới đang có trách nhiệm thực thi công vụ liên quan đến người cung cấp lợi ích, thì mới có điều kiện để thực hiện tội phạm thành công trên thực tế.

– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân.

Như vậy, từ sự phân tích về mặt khách quan cho thấy tội phạm này có những nội dung tương thích với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358). Chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 366 BLHS chỉ cần đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đối với tội phạm quy định tại Điều 358 BLHS thì chủ thể phải có chức vụ, quyền hạn và tiếng nói của họ phải có “trọng lượng” thì mới có thể gây ảnh hưởng đối với người đang thực thi công vụ thực hiện theo ý chí của người phạm tội. Khi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội không đủ mạnh với người đang thực thi công vụ, vị trí cũng không tương xứng thì việc người phạm tội nhận tiền, lợi ích từ người khác rồi dùng quan hệ quen biết, đồng nghiệp để gây ảnh hưởng làm cho người thực thi công vụ giải quyết công việc theo ý chí của họ, thì cần xem hành vi gây ảnh hưởng trong trường hợp này phạm vào Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.

Ví dụ như: Lực lượng Công an huyện X bắt quả trang A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, nên tạm giữ A để làm rõ. Gia đình A biết B là cán bộ điều tra của Công an huyện X nên gia đình A đề nghị B giúp đỡ để A được trả tự do. Mặc dù B không được phân công nhiệm vụ gì liên quan đến việc giải quyết vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nêu trên, nhưng B vẫn hứa sẽ tác động, giúp đỡ như đề nghị của gia đình A, và B đã nhận của gia đình A số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó thì hành vi của A bị phát hiện. Trong vụ án nói trên, tuy B là cán bộ điều tra, nhưng căn cứ theo quy định của pháp luật thì B không có bất kỳ thẩm quyền gì đối với việc bắt giữ hay trả tự do cho A; chức vụ, quyền hạn của B không thể nào gây ảnh hưởng được với quá trình xử lý đối với A. Vì vậy, hành vi của B chỉ có thể phạm vào Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 358) hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Nếu B có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác là phạm tội lừa đảo; còn nếu quá trình thực hiện hành vi, B chỉ vì vụ lợi và hy vọng với quan hệ đồng nghiệp với người có trách nhiệm giải quyết vụ án sẽ tác động, giúp đỡ được cho A thì hành vi này đã phạm tội theo quy định tại Điều 366 BLHS.