Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước tại Việt Nam
power control mechanism in 100% state-owned enterprises in vietnam

TS. Hoàng Ngọc Anh
An Ngọc Hà

Tóm tắt: Doanh nghiệp nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, bởi những đóng góp to lớn vào ngân sách nhà nước trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp nhà nước cũng bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề lạm quyền, tham nhũng và thiếu hiệu quả trong quản trị. Kiểm soát quyền lực trong doanh nghiệp nhà nước là yếu tố then chốt, nhằm bảo đảm tính minh bạch, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và phòng ngừa tiêu cực. Bài viết làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong kiểm soát quyền lực tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong thời gian tới.

Từ khóa: doanh nghiệp nhà nước; kiểm soát quyền lực; Việt Nam.

Ngày nhận bài: 12/5/2025

Ngày hoàn thành biên tập: 27/5/2025

Ngày duyệt đăng bài: 30/5/2025

Abstract: State-owned enterprises play a particularly important role in the Vietnamese economy, due to their great contributions to the state budget over the years. However, during their operations, state-owned enterprises have also revealed many limitations, especially abuse of power, corruption and inefficiency in governance. Controlling power in state-owned enterprises is a key factor to ensure transparency, improve the efficiency of state capital use and prevent negativity. The article clarifies some theoretical and practical issues in controlling power in state-owned enterprises in Vietnam, thereby proposing solutions to improve the power control mechanism in the coming time.

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội và giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, mô hình tổ chức và vận hành của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt là trong cơ chế kiểm soát quyền lực (KSQL) nội bộ. Việc quyền lực tập trung, nhưng thiếu cơ chế giám sát hiệu quả, đã dẫn đến những vụ việc sai phạm nghiêm trọng, thất thoát tài sản nhà nước và làm suy giảm niềm tin xã hội. Trước thực trạng đó, yêu cầu hoàn thiện cơ chế KSQL trong các DNNN đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, nhằm bảo đảm nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống lạm quyền trong quản trị doanh nghiệp.
1. Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực trong doanh nghiệp Nhà nước

Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định doanh nghiệp nhà nước bao gồm: (i) doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và (ii) doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết1. Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước là doanh nghiệp mà toàn bộ vốn điều lệ được đầu tư từ ngân sách nhà nước, chủ sở hữu là Nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu bao gồm Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (viết tắt là CMSC); Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)[1], như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thuộc Bộ Công thương; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) thuộc Chính phủ; Tổng công ty Đường sắt Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cấp thoát nước đô thị ở cấp tỉnh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh…

Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất của DNNN, quyết định toàn bộ các vấn đề mang tính chất quan trọng, cốt lõi, nhưng không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: chiến lược phát triển sản phẩm, kế hoạch phát triển doanh nghiệp từng giai đoạn, các quyết định kinh doanh cần sự linh động… Các DNNN luôn là đầu tàu kinh tế của cả nước, mặc dù số lượng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp (0,08%), nhưng đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước[2], đồng thời, có xu hướng mở rộng thị trường ra quốc tế. Vì vậy, trên thực tế, các doanh nghiệp này luôn được Nhà nước ưu tiên hơn so với các doanh nghiệp khác, được hưởng một số đặc quyền về tiếp cận vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai và nguồn nhân lực mà các doanh nghiệp khác không có được.

KSQL là quá trình giám sát, điều chỉnh các hành vi sử dụng quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp, thông qua các phương thức KSQL trong doanh nghiệp, bao gồm: kiểm soát nội bộ (thông qua Hội đồng thành viên (HĐTV), Ban kiểm soát, bộ phận kiểm toán nội bộ) và kiểm soát từ bên ngoài (thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu, kiểm toán nhà nước, thanh tra và sự giám sát của công luận, truyền thông), nhằm ngăn chặn sai phạm và phòng ngừa rủi ro từ bên trong.

Cơ chế KSQL nhằm bảo vệ tài sản Nhà nước khỏi lãng phí và thất thoát; bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý; tuân thủ quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước; bảo đảm quyền lực được sử dụng đúng mục đích, phòng ngừa lạm quyền và tham nhũng. Đồng thời, cơ chế này phải bảo đảm quyền lực không tập trung tuyệt đối vào một cá nhân. Điều này phù hợp với nguyên tắc phân quyền, phân nhiệm trong quản trị doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014.

Cơ chế KSQL trong DNNN được thể hiện dựa vào các yếu tố như sau:

Thứ nhất, về mục đích xây dựng cơ chế KSQL.

Xây dựng cơ chế KSQL nhằm bảo đảm quyền lực được sử dụng vào đúng mục đích, đúng quy định, chống lại sự lạm quyền của người quản lý khi nắm giữ quyền lực trong tay, để thực hiện các hành vi tham nhũng, hay sai phạm khác. Việc xây dựng cơ chế KSQL còn nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của Nhân dân, bởi DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu, mà Nhân dân chính là chủ thể của quyền lực nhà nước.

Thứ hai, yếu tố về chủ thể KSQL và chủ thể thực hiện quyền lực.

Chủ thể KSQL là Nhà nước, việc thực hiện kiểm soát thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu và các công cụ pháp luật như Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Cán bộ, công chức năm 2008,… Nhà nước KSQL trong DNNN thông qua nhiều hình thức khác nhau, nội dung kiểm soát trên nhiều phương diện, nhưng chủ yếu là về việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước trong DNNN.

Chủ thể thực hiện quyền lực trong DNNN là chủ thể trực tiếp thực hiện công việc quản lý, điều hành hàng ngày của doanh nghiệp, chính là người quản lý DNNN. Quy định của pháp luật Việt Nam xác định người quản lý DNNN bao gồm cả Kế toán trưởng, mặc dù Kế toán trưởng không thực hiện chức năng quản lý doanh nghiệp[3]. Kế toán trưởng có vai trò quản lý toàn bộ dòng tiền thu chi của DNNN, lập kế hoạch tài chính và báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp cho lãnh đạo cấp cao. Việc Kế toán trưởng được xem là người quản lý doanh nghiệp, vì họ cũng được trao quyền lực và chỉ khi có quyền lực, mới có thể thực hiện chức năng kế toán của mình, nên cũng phải có cơ chế để KSQL đối với chủ thể này.

Thứ ba, xác định loại quyền lực và cách thức quyền lực đó được thực hiện.

DNNN là doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động theo cơ chế thị trường, nhưng thuộc khu vực công, nên trong DNNN bao gồm cả quyền lực công và quyền lực tư. Hiện nay, DNNN được cải cách quản trị theo mô hình mới, sự tách bạch quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp trong DNNN đã chuyển hóa một phần quyền lực công sang quyền lực tư, khi giao quyền lực cho người quản lý DNNN thực hiện một số hoạt động kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, vì chuyển hóa một phần quyền lực, nên khả năng người quản lý DNNN tham nhũng rất cao, nếu không có cơ chế KSQL chặt chẽ.
2. Thực trạng kiểm soát quyền lực trong doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

Hiện nay, DNNN tại Việt Nam được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu, bộ máy quản trị gồm HĐTV (hoặc Chủ tịch công ty), Tổng giám đốc và người đứng đầu các bộ phận chuyên môn. Những người thuộc bộ máy quản trị của doanh nghiệp, còn được gọi là người quản lý doanh nghiệp.

Trong thời gian qua, việc hoàn thiện khung pháp lý cho DNNN đã được chú trọng, đặc biệt kể từ khi các quyền và nghĩa vụ của người quản lý DNNN trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng như trách nhiệm, thẩm quyền đại diện chủ sở hữu của các cơ quan đại diện theo Nghị định số 10/2019/NĐ-CP  ngày 30/01/2019 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2024/NĐ-CP ngày 25/7/2024)… được quy định rõ ràng đã góp phần nâng cao vai trò, trách nhiệm của cả người quản lý DNNN và cơ quan đại diện chủ sở hữu, từ đó, sự kiểm soát quyền lực trong DNNN hiện nay đã mang lại hiệu quả bước đầu.

Cơ chế công khai, minh bạch hóa tài chính cũng được cải thiện, đặc biệt thông qua chế độ báo cáo tài chính công khai, công bố kết quả kiểm toán độc lập và đánh giá nội bộ được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Số lượng kiểm tra, thanh tra tại các DNNN gia tăng. Nhờ vậy, nhiều vụ việc tiêu cực đã được phát hiện và xử lý sai phạm kịp thời, góp phần răn đe và phòng ngừa các vi phạm, cho thấy hiệu quả bước đầu của hoạt động giám sát của Nhà nước đối với DNNN. Nhiều doanh nghiệp lớn đã công bố báo cáo tài chính hàng năm, từng bước nâng cao minh bạch tài chính, phù hợp với yêu cầu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong KSQL trong DNNN như:

Một là, mâu thuẫn giữa chức năng kinh doanh và vai trò chính trị.

DNNN vừa phải thực hiện chức năng kinh doanh theo cơ chế thị trường, vừa thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội theo chỉ đạo từ Nhà nước, nên mục tiêu kinh tế dễ bị lẫn lộn với nhiệm vụ chính trị. Sự nhập nhằng này dễ dẫn đến lạm quyền, chi tiêu không hiệu quả, lợi dụng để đầu tư không đúng mục đích.

Ví dụ: Vụ án tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines)Vụ án Vinalines là ví dụ rõ nét cho thấy, khi DNNN bị lẫn lộn giữa nhiệm vụ chính trị và mục tiêu kinh doanh, sẽ dẫn tới quyết định đầu tư sai lệch, thiếu hiệu quả và dễ phát sinh tham nhũng. Nó cũng phản ánh rõ rủi ro khi Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh, nhưng thiếu cơ chế giám sát và đánh giá độc lập.

Hai là, chưa phân định rõ ràng, đầy đủ giữa chức năng đại diện chủ sở hữu, chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và chức năng quản lý doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước vừa là đại diện Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và cả quản trị doanh nghiệp, dễ dẫn đến xung đột vai trò và thiếu khách quan trong kiểm tra, giám sát. Mặc dù Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được thành lập, nhằm thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng chủ sở hữu Nhà nước để khắc phục tình trạng trên, nhưng cơ chế “vừa đá bóng, vừa thổi còi” vẫn đang tồn tại. Các bộ, cơ quan ngang bộ vẫn “đóng” cùng một lúc cả ba vai trò, nên việc KSQL bị mâu thuẫn.

Ba là, thiếu minh bạch, dễ phát sinh tham nhũng và lợi ích nhóm; khó xử lý trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm.

Quy trình bổ nhiệm, khen thưởng và xử lý sai phạm thường không được công khai, minh bạch, tạo điều kiện hình thành các nhóm lợi ích. Kiểm toán nội bộ và kiểm soát nội bộ trong DNNN nhiều khi không độc lập và chịu sự chi phối của chính lãnh đạo doanh nghiệp. Nhiều sai phạm chỉ được phát hiện, khi đã gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng xử lý lại kéo dài và thiếu tính răn đe.

Ví dụ: Sai phạm tại Tổng công ty Viễn thông Mobifone trong thương vụ mua AVG đã cho thấy dấu hiệu thao túng quyền lực và lợi ích nhóm, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước. Vào giai đoạn năm 2016-2018, Tổng công ty Viễn thông Mobifone đã thực hiện thương vụ mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu (AVG) với giá gần 8.900 tỷ đồng. Thương vụ này nhanh chóng bị phát hiện là có nhiều sai phạm nghiêm trọng như: không thẩm định giá trị doanh nghiệp AVG một cách khách quan, AVG là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong nhiều năm, nhưng lại được định giá cao bất thường; thiếu cơ chế giám sát và kiểm soát độc lập: Bộ Thông tin và Truyền thông không thực hiện đúng chức năng giám sát, mà còn can thiệp, chỉ đạo sai phạm trực tiếp vào quá trình phê duyệt dự án; quy trình phê duyệt gấp gáp và không minh bạch như quyết định đầu tư được ký chỉ sau vài ngày, bỏ qua các khâu kiểm định tài chính và chiến lược kinh doanh dài hạn, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 6.590 tỷ đồng

Vụ án cho thấy, hệ thống KSQL tại DNNN còn nhiều lỗ hổng. Sự thiếu minh bạch và việc kiểm tra, giám sát các hoạt động trong DNNN chưa chặt chẽ, đã dẫn đến sự lạm quyền, bao che và lợi ích nhóm.

Hay như năm 2022, nhiều sai phạm nghiêm trọng đã bị phát hiện tại Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) liên quan đến quản lý tài chính và đầu tư. Mặc dù VEAM có HĐTV và cơ cấu kiểm soát, nhưng các quyết định đầu tư sai lệch vẫn diễn ra trong thời gian dài, do HĐTV chỉ hoạt động mang tính hình thức và việc giám sát người quản lý doanh nghiệp bị buông lỏng, buộc Nhà nước phải can thiệp, trực tiếp thanh tra và xử lý kỷ luật một số cá nhân liên quan[6].

Bốn là, hệ thống giám sát bên ngoài chưa hiệu quả.

Các cơ quan như cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Quốc hội và Hội đồng nhân dân chủ yếu giám sát sau khi có dấu hiệu sai phạm, chưa phát huy được vai trò giám sát thường xuyên, độc lập và có tính cảnh báo sớm. Một số báo cáo giám sát chưa phản ánh đầy đủ các vấn đề tồn tại thực chất trong doanh nghiệp.

Ví dụ: Vụ án tại Tổng công ty xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC). Trong giai đoạn 2010-2012, PVC đã đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả và lập nhiều công ty con để hợp thức hóa các khoản chi, gây thua lỗ lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Trong suốt thời gian PVC thua lỗ và có dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng, Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ không vào cuộc kịp thời; Ủy ban quản lý vốn Nhà nước, Bộ Công thương và các cơ quan chủ quản không phát hiện hoặc không xử lý; Quốc hội và các cơ quan dân cử không phát huy vai trò giám sát từ sớm, chỉ nêu kiến nghị chung, mà không có hành động cụ thể. Dù PVC là doanh nghiệp lớn, nhận nhiều dự án quan trọng như Nhiệt điện Thái Bình 2,… nhưng vẫn thiếu giám sát thường xuyên, độc lập và minh bạch. Vụ án gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 3.200 tỷ đồng và để lại hậu quả lớn cho ngành dầu khíVụ án này là minh chứng rõ nét cho sự kém hiệu quả của hệ thống giám sát bên ngoài (nếu kiểm toán, thanh tra và cơ quan chủ sở hữu thiếu trách nhiệm, hoặc bị thao túng thì sai phạm dễ xảy ra và kéo dài). Nó cũng cho thấy, việc giám sát DNNN từ bên ngoài hiện vẫn mang tính hình thức, chỉ bị phát hiện sau khi doanh nghiệp đã có những sai phạm nghiêm trọng, thay vì được cảnh báo sớm.
3. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật và cơ chế kiểm tra, giám sát.

Việc KSQL trong DNNN đang bị chi phối bởi nhiều luật khác nhau, nhưng chưa thực sự tách bạch rõ được các chức năng chủ sở hữu Nhà nước, chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và chức năng của người quản lý doanh nghiệp. Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp và đại diện chủ sở hữu vẫn còn bị chồng chéo, tồn tại bất cập. Vì vậy, cần cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng.

Hoàn thiện quy định pháp luật nhằm bảo đảm tốt nhất cơ chế KSQL theo hướng:

(i) Bổ sung quy định cụ thể về phân quyền, phân cấp giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu và người quản lý, điều hành, ví dụ phân định rõ cơ quan đại diện chủ sở hữu không can thiệp vào hoạt động điều hành hàng ngày; người quản lý doanh nghiệp phải có nghĩa vụ báo cáo định kỳ, chịu trách nhiệm cá nhân; bổ sung cơ chế công khai, minh bạch các hoạt động bổ nhiệm, khen thưởng, xử lý kỷ luật trong doanh nghiệp.

(ii) Bổ sung chế tài rõ ràng khi người đại diện chủ sở hữu trực tiếp không thực hiện hoặc thực hiện sai chức trách (ví dụ: bị miễn nhiệm, thu hồi tài sản đã hưởng…); đề nghị tạm đình chỉ hoặc kiến nghị cách chức lãnh đạo, nếu phát hiện sai phạm lớn; quy định giám sát cần phải gắn với kết quả đầu ra, không chỉ dựa vào hình thức báo cáo tài chính.

(iii) Mở rộng phạm vi kiểm toán bắt buộc đối với các DNNN và cả công ty con có vốn Nhà nước chi phối.

(iv) Bỏ cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước là các Bộ, Ủy ban nhân dân, đồng thời, nâng cao vị trí, vai trò của Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp để tách bạch triệt để chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và kiểm tra nội bộ.

Phát huy vai trò của Kiểm toán Nhà nước, HĐTV, tăng cường tính độc lập và chuyên môn hóa của các đơn vị giám sát; tăng quyền hạn và trách nhiệm giám sát định kỳ của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tài chính và vận hành trong doanh nghiệp.

Tổ chức kiểm toán nội bộ tách biệt hoàn toàn với ban điều hành, không trực thuộc Tổng giám đốc như hiện nay, mà nên báo cáo trực tiếp cho HĐTV hoặc Ban kiểm soát; tuyển dụng và đào tạo nhân sự có chứng chỉ chuyên môn (CIA – Certified Internal Auditor…); tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, giám sát; áp dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) để xác định bất thường, gian lận, hoặc dấu hiệu tham nhũng tiềm ẩn.

Thứ ba, minh bạch hóa hoạt động quản trị và tài chính.

(i) Công khai báo cáo quản trị doanh nghiệp định kỳ theo quý và năm, theo mẫu được quy định tại Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ Tài chính về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 18/2025/TT-BTC ngày 26/4/2025 của Bộ Tài chính), tiến tới tiệm cận chuẩn mực của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đề ra.

(ii) Minh bạch tài chính thông qua báo cáo kiểm toán độc lập: DNNN phải thuê kiểm toán độc lập hằng năm, báo cáo phải được công khai và gửi đến cơ quan chủ sở hữu, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính.

(iii) Minh bạch hóa hoạt động đầu tư và đấu thầu: Mọi hoạt động đầu tư ra ngoài ngành, dự án có vốn lớn (trên 10% vốn điều lệ) phải trình duyệt qua hệ thống điện tử, được giám sát tự động.

Thứ tư, tăng cường sự tham gia giám sát của xã hội, công luận.

(i) Phát huy vai trò giám sát của người lao động; xây dựng văn hóa doanh nghiệp liêm chính; đổi mới phương thức giám sát của cơ quan dân cử và xã hội. Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần tăng cường giám sát chuyên đề với quyền yêu cầu giải trình từ lãnh đạo doanh nghiệp. Phát huy vai trò giám sát của báo chí, tổ chức xã hội và người dân thông qua công khai thông tin và phản biện xã hội.

(ii) Tăng cường giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình: Cho phép người dân, tổ chức phản biện xã hội truy cập dữ liệu quản trị công khai, trừ phần thuộc bí mật kinh doanh hoặc an ninh quốc gia. Doanh nghiệp phải thực hiện cơ chế đối thoại định kỳ với người lao động, tổ chức công đoàn và cơ quan chủ quản về kết quả kinh doanh – quản trị.

Kết luận

Việc KSQL trong DNNN là yêu cầu khách quan và cấp thiết, nhằm phòng ngừa rủi ro và sai phạm trong hoạt động điều hành. Nó không chỉ là vấn đề quản trị doanh nghiệp đơn thuần, mà còn là nội dung mang ý nghĩa chính trị – pháp lý sâu sắc, gắn liền với trách nhiệm sử dụng hiệu quả tài sản công và bảo vệ lợi ích quốc gia. Mặc dù thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Do đó, việc hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực của cơ chế giám sát và cụ thể hóa trách nhiệm lãnh đạo là những giải pháp trọng tâm trong thời gian tới, nhằm kiểm soát một cách tốt nhất hoạt động của các DNNN tại Việt Nam hiện nay.

Tài liệu tham khảo

  1. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
  2. Luật Doanh nghiệp năm 2020.
  3. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014.
  4. Luật Kế toán năm 2015.
  5. Hà Linh, Đóng góp hơn 29% GDP, DNNN cần phát huy hơn nữa vai trò dẫn dắt nền kinh tế, https://www.anninhthudo.vn/dong-gop-hon-29-gdp-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-phat-huy-hon-nua-vai-tro-dan-dat-nen-kinh-te-post499461.antd, truy cập ngày 14/5/2025.
  6. Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ quy định về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước.
  7. Nghị định số 97/2024/NĐ-CP ngày 25/7/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu.
  8. Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
  9. Thông tư số 18/2025/TT-BTC ngày 26/4/2025 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 119/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán, Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Thông tư số 68/2024/TT-BTC ngày 18/ 9/2024 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
  10. Bị cáo Dương Chí Dũng bị đề nghị tăng nặng hình phạt, https://baodanang.vn/channel/5432/201312/bi-cao-duong-chi-dung-bi-de-nghi-tang-nang-hinh-phat-2293295/, truy cập ngày 22/5/2025.
  11. Đại án MobiFone mua AVG: Hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo, https://baochinhphu.vn/dai-an-mobifone-mua-avg-hinh-phat-nghiem-khac-doi-voi-cac-bi-cao-102266271.htm, truy cập ngày 22/5/2025.
  12. Khởi tố ba bị can trong vụ Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), https://baobacgiang.vn/khoi-to-ba-bi-can-trong-vu-tong-cong-ty-may-dong-luc-va-may-nong-nghiep-viet-nam-veam-postid350403.bbg, truy cập ngày 22/5/2025.
  13. Vụ Trịnh Xuân Thanh gây thất thoát 3.200 tỷ đồng: Có dấu hiệu ‘cố ý làm trái’, https://vtcnews.vn/vu-trinh-xuan-thanh-gay-that-thoat-3200-ty-dong-co-dau-hieu-co-y-lam-trai-ar272569.html, truy cập ngày 22/5/2025.

1 Khoản 1 Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[1] Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ quy định về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước (gọi tắt là Nghị định số 10/2019/NĐ-CP).

[2] Hà Linh, Đóng góp hơn 29% GDP, doanh nghiệp Nhà nước cần phát huy hơn nữa vai trò dẫn dắt nền kinh tế, https://www.anninhthudo.vn/dong-gop-hon-29-gdp-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-phat-huy-hon-nua-vai-tro-dan-dat-nen-kinh-te-post499461.antd, truy cập ngày 14/5/2025.

[3] Khoản 7 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014.

[4] Bị cáo Dương Chí Dũng bị đề nghị tăng nặng hình phạt, https://baodanang.vn/channel/5432/201312/bi-cao-duong-chi-dung-bi-de-nghi-tang-nang-hinh-phat-2293295/, truy cập ngày 22/5/2025.

[5] Đại án MobiFone mua AVG: Hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo, https://baochinhphu.vn/dai-an-mobifone-mua-avg-hinh-phat-nghiem-khac-doi-voi-cac-bi-cao-102266271.htm, truy cập ngày 22/5/2025.

[6] Khởi tố ba bị can trong vụ Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), https://baobacgiang.vn/khoi-to-ba-bi-can-trong-vu-tong-cong-ty-may-dong-luc-va-may-nong-nghiep-viet-nam-veam-postid350403.bbg, truy cập ngày 22/5/2025.

[7] Vụ Trịnh Xuân Thanh gây thất thoát 3.200 tỷ đồng: Có dấu hiệu ‘cố ý làm trái’, https://vtcnews.vn/vu-trinh-xuan-thanh-gay-that-thoat-3200-ty-dong-co-dau-hieu-co-y-lam-trai-ar272569.html, truy cập ngày 22/5/2025.

Nguồn: Tạp chí Toà án nhân dân Số 14/2025