Khám nghiệm hiện trường theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành

Trung tá, Tiến sĩ Lê Văn Công
Phó trưởng Khoa – Phân viện Khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh

 Quá trình điều tra vụ án hình sự (VAHS) là quá trình các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong VAHS theo yêu cầu của pháp luật. Về mặt lý luận, khoa học Luật Tố tụng hình sự (TTHS) và Khoa học Điều tra hình sự đều xác định có nhiều cách phân chia tài liệu, chứng cứ thành các loại, các dạng khác nhau. Tuy vậy, xét ở góc độ bản chất thì tài liệu, chứng cứ được phân ra thành hai loại là: Chứng cứ vật chất (dấu vết, vật chứng) và chứng cứ nhận thức (lời khai, lời trình bày). Tùy thuộc vào việc cơ quan chức năng thu thập loại chứng cứ nào mà hoạt động điều tra được lựa chọn và tiến hành phù hợp.

Để thu thập thu thập các chứng cứ vật chất (dấu vết, vật chứng), cơ quan chức năng có thể tiến hành một số hoạt động điều tra khác nhau nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản và đánh giá các chứng cứ vật chất (dấu vết, vật chứng) tại nơi chúng tồn tại. Một trong số các hoạt động điều tra nhằm thu thập các chứng cứ vật chất (dấu vết, vật chứng) được tiến hành là hoạt động khám nghiệm hiện trường (KNHT).

Hiện nay hoạt động KNHT được quy định tại Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 và một số điều có liên quan, bên cạnh đó là Thông tư số 81/2021/TT-BCA ngày 26/7/2021 “Quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng CAND” (trước đó là Quyết định 57/2001/QĐ-BCA(C11) về ban hành Quy chế phối hợp giữa các lực lượng CAND trong công tác KNHT). So với Bộ luật TTHS 2003, thì quy định về hoạt hoạt KNHT trong Bộ luật TTHS năm 2015 đã được hoàn thiện một bước đáng kể, tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho các cơ quan, lực lượng chức năng có thẩm quyền tiến hành hoạt động KNHT theo đúng pháp luật và hiệu quả. Tuy vậy, nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về hoạt động KNHT và các điều luật có liên quan, cũng như một số văn bản dưới luật hướng dẫn cho thấy quy định về hoạt động KNHT trong pháp luật TTHS vẫn còn những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện.

1. Quy định về nơi tiến hành khám nghiệm

 Khoản 1 Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “ĐTV chủ trì tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm …[1]. Theo quy định này thì địa điểm tiến hành khám nghiệm (tức là hiện trường) là “nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm”. Vấn đề đặt ra ở đây là trong thực tiễn điều tra các vụ việc có dấu hiệu hình sự thì rất nhiều vụ việc tại giai đoạn đầu của quá trình điều tra, khi mà các cơ quan chức năng tiến hành KNHT, thông thường chưa có đủ thông tin, cơ sở để xác định vụ việc xảy ra là có tội phạm hay chưa có tội phạm. Và chính thông qua hoạt động KNHT giúp cho các cơ quan chức năng thu thập các chứng cứ (chứng cứ vật chất) để góp phần xác định có hay không vụ việc phạm tội đã xảy ra. Cũng chính vì vậy, mà trong Bộ luật TTHS năm 2003, tại Khoản 2 Điều 150 có quy định “KNHT có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án”[2] (tuy vậy Bộ luật TTHS năm 2015 đã bỏ quy định này). Như vậy, sẽ có trường hợp hoạt động KNHT được tiến hành nhưng sau đó cơ quan chức năng ra quyết định không khởi tố vụ án do không có vụ việc phạm tội. Và như vậy thấy rằng, quy định “ĐTV chủ trì tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm …” tại Khoản 1 Điều 201 Bộ luật TTHS 2015 là chưa thực sự chuẩn xác.

Về vấn đề hiện trường (nơi tiến hành khám nghiệm), dưới góc độ của khoa học Điều tra hình sự, hiện trường được xác định là “…nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có tính hình sự mà cơ quan Công an cần tiến hành khám nghiệm nhằm phát hiện các dấu vết, vật chứng và thu thập các thông tin có liên quan trực tiếp tại hiện trường góp phần làm rõ các tình tiết của vụ việc”[3] . Vụ việc có tính hình sự được hiểu là vụ việc có dấu hiệu hình sự, nói cách khác là vụ việc có dấu hiệu của tội phạm (thường là dấu hiệu về khách thể bị xâm hại) nhưng tại thời điểm ban đầu chưa xác định được cụ thể có tội phạm xảy ra trên thực tế hay chưa. Do đó, theo chúng tôi, dưới góc độ của pháp luật TTHS cần xác định nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm là hiện trường thì sẽ hợp lý hơn.

2. Quy định về người chủ trì, tiến hành và người có chuyên môn tham dự

Thứ nhất, về người chủ trì khám nghiệm: Khoản 1 Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “ĐTV chủ trì tiến hành khám nghiệm …”. Căn cứ vào quy định này xác định: ĐTV là người chủ trì tiến hành KNHT. Chủ trì được hiểu là việc tổ chức, quản lý và điều hành việc khám nghiệm. Tức là, khi có vụ việc xảy ra, xét thấy cần thiết phải KNHT thì ĐTV (được phân công) phải tổ chức lực lượng để KNHT và phân công nhiệm vụ, chỉ đạo, điều hành, điều phối hoạt động khám nghiệm trên hiện trường. So với Bộ luật TTHS 2003 thì Bộ luật TTHS hiện hành đã có quy định phù hợp với thực tiễn hoạt động KNHT. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 150 Bộ luật TTHS 2003 thì xác định ĐTV là người tiến hành khám nghiệm – “ĐTV tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án”[4]. Điều này là không phù hợp với thực tế vì KNHT là hoạt động điều tra có tính đặc thù, phải được tiến hành bởi lực lượng chuyên môn, có kiến thức, có kỹ năng, có phương pháp về KNHT, về phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá các phản ánh vật chất (dấu vết, vật chứng). Do đó, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định ĐTV chỉ ở vai trò chủ trì khám nghiệm là phù hợp.

Tuy nhiên, quy định về vai trò chủ trì của ĐTV tại Khoản 1 Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 lại mâu thuẫn với điểm g Khoản 1 Điều 37 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV trong KNHT. Theo đó, điểm g Khoản 1 Điều 37 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định ĐTV là người tiến hành KNHT[5]. Tiến hành KNHT được hiểu là trực tiếp thực hiện các hoạt động khám nghiệm, tìm kiếm, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá các dấu vết, vật chứng trên hiện trường. Như vậy, căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 201 và điểm g Khoản 1 Điều 37 Bộ luật TTHS năm 2015 thì ĐTV không chỉ ở vai trò chủ trì mà còn là người tiến hành toàn bộ hoạt động KNHT. Nói cách khác quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về vấn đề này là có mâu thuẫn với nhau.

Thứ hai, về người có chuyên môn tham dự khám nghiệm: Khoản 2 Điều 201 Bộ luật TTHS 2015 quy định “…Khi khám nghiệm hiện trường ….; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”[6].

Như vậy, ngoài ĐTV là người chủ trì khám nghiệm, việc khám nghiệm còn có sự tham dự của người có chuyên môn. Tuy vậy, quy định trên có những luận điểm không rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng trong thực tế. Cụ thể là:

– Người như thế nào được coi là người có chuyên môn?

Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn như thế nào là người có chuyên môn trong KNHT. Về vấn đề “người có chuyên môn”, trong lực lượng CAND xác định, người có chuyên môn là những cán bộ thuộc lực lượng Kỹ thuật hình sự (KTHS). Họ là những người được phân công nhiệm vụ trực tiếp tiến hành khám nghiệm dưới sự chủ trì của ĐTV. Cụ thể, quy định tại Khoản 2 Điều 201 được cụ thể hóa tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 81/2021/TT-BCA ngày 26/7/2021 quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng CAND (trước đó là Quyết định 57/2001/QĐ-BCA(C11) về ban hành Quy chế phối hợp giữa các lực lượng CAND trong công tác KNHT) quy định lực lượng KTHS trong CAND có trách nhiệm “trực tiếp thực hiện hoạt động KNHT theo yêu cầu của CQĐT…”. Như vậy, trong CAND, lực lượng KTHS được xác định là lực lượng chuyên môn và trực tiếp tiến hành KNHT dưới sự chủ trì của ĐTV, tức là trực tiếp thực hiện các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết, vật chứng ở hiện trường; cũng như tiến hành đánh giá, khai thác các thông tin có được từ hiện trường, từ dấu vết, vật chứng để cung cấp cho ĐTV.

Tuy nhiên, nếu xác định cán bộ KTHS là những người chuyên môn và trực tiếp tiến hành KNHT theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 81/2021/TT-BCA thì lại mâu thuẫn với quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 37 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV trong KNHT như đã đề cập ở trên. Bởi như đã phân tích thì điểm g Khoản 1 Điều 37 quy định ĐTV là người tiến hành KNHT. Ngoài ra, nếu xác định cán bộ KTHS là những người chuyên môn và trực tiếp tiến hành KNHT thì trong biên bản KNHT họ phải được ký tên với tư cách là người tiến hành. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì cán bộ KTHS lại là người ký tên vào phần “người tham dự” theo biểu mẫu biên bản KNHT, biên bản xác định hiện trường, biên bản dựng lại hiện trường ban hành kèm theo Thông tư 119/2021/TT-BCA ngày 08/12/2021 quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự.

– Việc mời người có chuyên môn tham dự khám nghiệm có phải là bắt buộc hay không?

Phân tích quy định “…; có thể cho bị can… và mời….” tại Khoản 2 Điều 201 chúng tôi cho rằng điều luật này quy định việc mời những người chuyên môn là không bắt buộc, mà có thể mời nếu cần thiết. Từ đây thấy rằng, dường như quy định về mời người có chuyên môn tham dự trong Khoản 2 Điều 201 nghiêng về việc xác định người có chuyên môn là người có kiến thức trên các lĩnh vực khoa học và họ tham dự KNHT là để tham vấn, đưa ra các ý kiến có tính chuyên môn khoa học có liên quan tới hiện trường và dấu vết, vật chứng ở hiện trường, chứ họ không tiến hành KNHT. Do đó, sự có mặt của họ là không bắt buộc mà chỉ mời khi ĐTV xét thấy cần thiết.

Nếu hiểu về “người có chuyên môn tham dự” như trên thì theo chúng tôi việc xác định cán bộ KTHS là người có chuyên môn theo Thông tư số 81/2021/TT-BCA lại không chính xác, bởi theo thông tư này thì cán bộ KTHS trong CAND có trách nhiệm “trực tiếp thực hiện hoạt động KNHT theo yêu cầu của CQĐT…”, trong mọi trường hợp CQĐT tổ chức KNHT thì cán bộ KTHS phải trực tiếp khám nghiệm chứ không phải là chỉ có mặt nếu cần thiết. Nhưng nếu không xác định cán bộ KTHS là người có chuyên môn trực tiếp tiến hành khám nghiệm thì vấn đề đặt ra là vậy hoạt động KNHT sẽ do ai, cán bộ nào, lực lượng nào trực tiếp tiến hành dưới sự chủ trì của ĐTV.

3. Quy định về việc tiến hành hoạt động khám nghệm hiện trường của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015 thì các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng[7]. Trong quá trình tiến hành một số hoạt động điều tra theo thẩm quyền, các cơ quan này có thể tiến hành hoạt động KNHT. Theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 39 và điểm c Khoản 2 Điều 40 của Bộ luật TTHS năm 2015 thì cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp tổ chức và chỉ đạo việc KNHT; tại điểm d Khoản 4 Điều 39, điểm d Khoản 3 Điều 40 quy định người tiến hành KNHT là cán bộ điều tra của các cơ quan này[8]. Như vậy, đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì trong trường hợp tổ chức và tiến hành KNHT thì cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan đó là người chủ trì khám nghiệm, cán bộ điều tra của cơ quan đó (được phân công) là người tiến hành khám nghiệm.

Tuy vậy, Điều 201 quy định về hoạt động KNHT lại không hề có quy định nào về việc tiến hành KNHT của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo chúng tôi đây là một thiếu sót vì như vậy không bảo đảm cơ sở pháp lý để các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành hoạt động KNHT.

4. Quy định về trình tự, thủ tục và hồ sơ khám nghiệm hiện trường

Bộ luật TTHS hiện hành, cũng như các văn bản pháp luật có liên quan không quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục tiến hành KNHT. Ngoài việc quy định trước khi tiến hành khám nghiệm ĐTV phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành KNHT, và Viện kiểm sát phải cử KSV kiểm sát KNHT, KSV phải có mặt để kiểm sát trực tiếp việc khám nghiệm thì Bộ luật TTHS hiện hành, cũng như các văn bản pháp luật có liên quan chỉ quy định nội dung các công việc phải thực hiện trong quá trình khám nghiệm. Theo đó, Khoản 3 Điều 201 Bộ luật TTHS 2015 quy định: “Khi KNHT phải tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình; xem xét tại chỗ và thu lượm dấu vết của tội phạm, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả khám nghiệm vào biên bản. Biên bản KNHT được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Trường hợp không thể xem xét ngay được thì tài liệu, đồ vật thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra”[9]. Theo quy định trên thì khi KNHT, ĐTV cùng các lực lượng chuyên môn phải: Tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình về hiện trường và các dấu vết, đồ vật, tài liệu phát hiện được có liên quan; lập biên bản KNHT.

Nghiên cứu quy định tại Khoản 3 Điều 201 Bộ luật TTHS 2015 chúng tôi nhận thấy có điểm bất cập như sau:

Một là, khi KNHT phải dựng mô hình. Tức là bắt buộc phải dựng mô hình.

Dựng mô hình được hiểu là việc dựng mô phỏng lại hiện trường, đồ vật, dấu vết dưới dạng mô hình (3D) để sử dụng đánh giá về hiện trường, dấu vết, đồ vật. Tuy vậy, phải thấy rằng việc dựng mô hình rất hiếm khi được thực hiện trong thực tiễn, nếu không muốn nói là chưa thấy được thực hiện. Do vậy, việc Bộ luật TTHS 2015 quy định tại Khoản 3 Điều 201“Khi KNHT phải …dựng mô hình;…” theo chúng tôi là chưa hợp lý. Thực tế chỉ khi nào xét thấy thực sự cần thiết thì ĐTV và các cán bộ chuyên môn mới tiến hành dựng mô hình.

Hai là, trách nhiệm thiết lập hồ sơ KNHT bao gồm: Biên bản KNHT, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường thuộc về cá nhân, đơn vị nào.

Trước hết, Khoản 3 Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015 không quy định trách nhiệm việc thực hiện các nhiệm vụ trên thuộc về cá nhân, đơn vị nào. Nếu xác định ĐTV chỉ là người chủ trì theo Khoản 1 Điều 201 thì ĐTV không phải là người trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ này. Nhưng nếu xác định ĐTV là người tiến hành KNHT theo điểm g Khoản 1 Điều 37 thì rõ ràng ĐTV phải thực hiện các nhiệm vụ này. Ngoài ra nếu căn cứ vào các điều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra thì Cán bộ điều tra có trách nhiệm lập hồ sơ vụ án. Vậy, Cán bộ điều tra phải là người phải lập hồ sơ KNHT hay không.

Về vấn đề trách nhiệm thiết lập hồ sơ KNHT, căn cứ vào Thông tư số 81/2021/TT-BCA ngày 26/7/2021 quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng CAND xác định: Lực lượng KTHS trong CAND có trách nhiệm “phối hợp với cán bộ chủ trì KNHT thiết lập hồ sơ KNHT”[10]. Như vậy, lực lượng KTHS trong CAND được xác định là lực lượng chuyên môn trực tiếp tiến hành khám nghiệm như đã đề cập ở các phần trên và có trách nhiệm phối hợp với cán bộ chủ trù để thiết lập hồ sơ KNHT bao gồm: Biên bản KNHT, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường. Vấn đề ở đây là mặc dù được xác định là lực lượng trực tiếp tiến hành KNHT (theo Thông tư hướng dẫn) nhưng trong thiết lập hồ sơ KNHT thì lực lượng KTHS chỉ có nhiệm vụ phối hợp với cán bộ chủ trì chứ không phải là người trực tiếp thiết lập. Điều này lại không phù hợp với thực tiễn hoạt động KNHT, bởi trong thực tiễn cán bộ KTHS lại là người trực tiếp thiết lập hồ sơ KNHT.

Ba là, vấn đề xác định người tham gia, tham dự và ký tên trong biên bản KNHT, biên bản xác định hiện trường và biên bản dựng lại hiện trường.

Căn cứ vào Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015 về việc giải thích từ ngữ thì không có quy định về việc giải thích người tham dự tố tụng mà chỉ có giải thích về người tham gia tố tụng[11]. Do đó, vấn đề quy định về “tham dự” của người có chuyên môn tại Khoản 2 Điều 201 là chưa được giải thích. Mặt khác, trong các quy định về biên bản hoạt động điều tra được quy định tại Điều 178, Điều 133 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng chỉ đề cập tới người tham gia tố tụng chứ không đề cập tới người tham dự tố tụng.

Bên cạnh đó, các biểu mẫu biên bản KNHT, biên bản xác định hiện trường và biên bản dựng lại hiện trường ban hành kèm theo Thông tư 119/2021/TT-BCA ngày 08/12/2021 quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự cũng chưa có sự thống nhất về người tham gia, người tham dự. Theo đó, biểu mẫu biên bản KNHT (mẫu số 163) và biểu mẫu xác định hiện trường (mẫu số 161) chỉ có người tham dự mà không có người tham gia; biểu mẫu biên bản dựng lại hiện trường (mẫu số 164) có cả người tham gia, người tham dự.

Như vậy, hiện tại chưa có sự thống nhất trong quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 cũng như các Thông tư hướng dẫn về việc xác định người tham gia, tham dự và ký tên trong biên bản KNHT, biên bản xác định hiện trường và biên bản dựng lại hiện trường.

5. Bàn về tư cách pháp lý của cán bộ chuyên môn trong khám nghiệm hiện trường

Từ việc phân tích các quy định của pháp luật nêu trên và đối chiếu với thực tiễn hoạt động KNHT chúng tôi nhận thấy: Hiện nay trong thực tiễn thì lực lượng KTHS (của Công an, Quân đội) được xác định là lực lượng chuyên môn về KNHT. Đây là lực lượng trực tiếp tiến hành hoạt động KNHT, cũng như thiết lập hồ sơ KNHT dưới sự chủ trì của ĐTV (hoặc chủ trì của cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Tuy vậy, Bộ luật TTHS không có quy định về nhiệm vụ tiến hành KNHT của lực lượng chuyên môn (KTHS); đồng thời không rõ cán bộ chuyên môn (KTHS) đóng vai trò là người nào trong các cuộc khám nghiệm. Đây là vấn đề đã tồn tại từ Bộ luật TTHS 2003 nhưng đến Bộ luật TTHS 2015 vẫn không giải quyết được. Thực tế cán bộ chuyên môn (KTHS) là những người trực tiếp tiến hành KNHT nhưng địa vị của họ chỉ được ghi nhận là “người tham dự KNHT” với vai trò là người có chuyên môn.

Từ việc phân tích về những điểm mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật TTHS hiện hành, cũng như trong sự đối chiếu với thực tiễn tiến hành hoạt động KNHT, chúng tôi cho rằng cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS có liên quan đến KNHT để bảo đảm cơ sở pháp lý thống nhất cho hoạt động KNHT và bảo đảm cho việc nhận thức đúng, thống nhất về hoạt động KNHT, từ đó có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn thi hành. Theo đó, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung một số vấn đề có liên quan đến hoạt động KNHT như sau:

Thứ nhất, đối với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS:

– Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 201. Khám nghiệm hiện trường như sau:

Điều 201. Khám nghiệm hiện trường

  1. Điều tra viên chủ trì tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm để phát hiện dấu vết của vụ việc, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan và làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc (sửa đổi).
  2. Để tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo và yêu cầu lực lượng chuyên môn về khám nghiệm hiện trường trực tiếp thực hiện khám nghiệm và có thể mời người có chuyên môn khác tham dự khám nghiệm (mới).
  3. Trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.
  4. Khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng tham gia.
  5. Cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tổ chức và chỉ đạo việc khám nghiệm hiện trường khi tiến hành điều tra đối với các vụ việc theo thẩm quyền; phân công cán bộ điều tra của cơ quan mình trực tiếp tiến hành khám nghiệm. Trường hợp cần thiết thì thông báo và yêu cầu lực lượng chuyên môn về khám nghiệm hiện trường trực tiếp thực hiện khám nghiệm (mới).
  6. Khi khám nghiệm hiện trường phải tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, có thể dựng mô hình nếu cần thiết; xem xét tại chỗ và thu lượm dấu vết của tội phạm, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ việc; ghi rõ kết quả khám nghiệm vào biên bản. Biên bản KNHT được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này (sửa đổi).

Trường hợp không thể xem xét ngay được thì tài liệu, đồ vật thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.

– Sửa đổi điểm g Điều 37. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên như sau:

Điều 37. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên

….

“g) Chủ trì tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra và khai quật tử thi”

– Bổ sung vào điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015 giải thích về “người tham dự tố tụng” và bổ sung người tham dự tố tụng vào các Điều 133, Điều 178 Bộ luật TTHS năm 2015 về Biên bản điều tra.

Thứ Hai, đối với Thông tư số 81/2021/TT-BCA ngày 26/7/2021 quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng CAND:

Sửa đổi Khoản 4 Điều 7 của Thông tư này thành: “Cùng với cán bộ chủ trì khám nghiệm hiện trường thiết lập hồ sơ khám nghiệm hiện trường”.

Thứ ba, đối với biểu mẫu biên bản KNHT, biên bản xác định hiện trường, biên bản dựng lại hiện trường ban hành kèm theo Thông tư Số: 119/2021/TT-BCA ngày 08/12/2021 quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự. Cần sửa đổi, bổ sung như sau:

– Bổ sung “người tiến hành khám nghiệm” vào dưới phần: “Chúng tôi gồm”.

– Bổ sung “người tham gia” vào mục: Với sự tham dự của (2) thành: Với sự tham gia, tham dự của (2)”.

– Ở các mục ký tên:

+ Mục: “ĐIỀU TRA VIÊN” sửa thành “NGƯỜI CHỦ TRÌ KHÁM NGHIỆM” (khi ký ghi rõ chức danh, cấp bậc, họ tên).

+ Mục: “NGƯỜI THAM DỰ” sửa thành “NGƯỜI THAM GIA, THAM DỰ”.

+ Bổ sung mục ký: NGƯỜI TIẾN HÀNH KHÁM NGHIỆM (khi ký ghi rõ chức danh, cấp bậc, họ tên)./.

[1] Xem Điều 201 Bộ luật TTHS năm 2015

[2] Xem Khoản 2 Điều 150 Bộ luật TTHS năm 2003

[3] Xem: Trường Cao đẳng CSND II (2014), Giáo trình Bảo vệ hiện trường, lưu hành nội bộ, trang 2.

[4] Xem Điều 150 Bộ luật TTHS năm 2003

[5] Xem Điều 37 Bộ luật TTHS năm 2015

[6] Xem Khoản 2 Bộ luật TTHS năm 2015

[7] Xem điểm a Khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015

[8] Xem Điều 39, Điều 40 Bộ luật TTHS năm 2015

[9] Xem Khoản 3 Điều 201 Bộ luật TTHS 2015

[10] Xem Khoản 4 Điều 7 Thông tư số 81/2021/TT-BCA ngày 26/7/2021 quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác KNHT của lực lượng CAND

[11] Xem điểm c Khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015