Kinh nghiệm tranh tụng của Kiểm sát viên trong trường hợp bị cáo bị truy tố về tội phạm xâm phạm sở hữu không nhận tội

Thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vụ án xâm phạm sở hữu cho thấy hành vi phạm tội xảy ra phần lớn là ở nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì những tội phạm này có dấu hiệu khác nhau đặc trưng là ở phương pháp, thủ đoạn chiếm đoạt tài sản như: tội “Cướp tài sản” thì dấu hiệu đặc trưng là hành vi vũ lực, đe dọa tức khắc sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được; tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” là thủ đoạn bắt cóc nạn nhân nhằm tạo điều kiện cho việc chiếm đoạt; tội “Cưỡng đoạt tài sản” là  đe dọa sẽ sử dụng vũ lực (không có tính tức khắc sẽ xảy vũ lực như tội cướp tài sản) hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người bị hại; tội “Cướp giật tài sản” thì người phạm tội sử dụng phương thức công khai và nhanh chóng; tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” là lợi dụng hoàn cảnh khách quan làm nạn nhân không có khả năng bảo vệ tài sản; tội “Trộm cắp tài sản” thì thủ đoạn là lén lút; tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thủ đoạn chính là gian dối và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là lợi dụng sự tin tưởng của người bị hại. Sau khi phân biệt rõ sự khác nhau giữa các cấu thành tội phạm liên quan, Kiểm sát viên đối chiếu với diễn biến thực tế của hành vi mà bị cáo thực hiện để kết luận bị cáo đã phạm tội. Đối với những vụ án mà quá trình phạm tội, có thể bị cáo sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau, thì Kiểm sát viên phải chỉ ra thủ đoạn chủ yếu giúp cho bị cáo chiếm đoạt được tài sản là sơ sở để xác định tội danh bị cáo đã phạm. Tuy nhiên đối với tội lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì ranh giới giữa tội phạm và tranh chấp dân sự, kinh tế rất mong manh, trong thực tế nhiều trường hợp khi giao kết hợp đồng hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng, chủ thể cũng có hành vi gian dối để làm tăng lợi thế trong giao kết hoặc để trốn tránh nghĩa vụ thanh toán, nhưng để xác định là tội phạm, thì Kiểm sát viên nhận định rõ hành vi gian dối trên của chủ thể là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, và trên thực tế đã có hành vi chiếm đoạt, lúc đó việc Kiểm sát viên đề xuất quan điểm xử lý chủ thể có hành vi gian dối theo quy định của pháp luật hình sự mới đúng người và đúng tội.

Ví dụ như vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Y: Bị cáo Nguyễn Thị Mận và anh Nguyễn Văn Giao có quan hệ họ hàng. Ngày 08/9/2011, vợ chồng Nguyễn Thị Mận, Hoàng Đình Hải vay của vợ chồng anh Nguyễn Văn Giao, Vũ Thị Lan 01 tỷ đồng; ngày 16/9/2011 vợ chồng Hải vay tiếp vợ chồng anh Giao 538 triệu đồng, tổng cộng là 1.538.000.000đ. Cả hai lần vay, Hải, Mận đều ký giấy nhận nợ và giao cho chị Lan giữ. Ngày 15/10/2011, Mận trả chị Lan 138 triệu đồng, còn nợ 1,4 tỷ đồng. Do cần tiền trả nợ, vợ chồng Hải, Mận đã rao bán mảnh đất 42,5m2 tại thị trấn Yên Mỹ, mảnh đất này vợ chồng Hải đang thế chấp ngân hàng Công Thương chi nhánh Mỹ Hào để vay 500 triệu đồng. Ngày 13/11/2011, vợ chồng anh Giao, chị Lan thỏa thuận với Hải, Mận mua mảnh đất này với giá 03 tỷ đồng. Hai bên thỏa thuận, vợ chồng anh Giao đặt cọc cho Hải, Mận số tiền 1,9 tỷ đồng (gồm 1,4 tỷ đồng trừ vào tiền nợ; còn 500 triệu đồng vợ chồng anh Giao phải nộp vào ngân hàng để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Sau khi thỏa thuận, Hải viết “Giấy chuyển nhượng nhà và đất” với nội dung: Chuyển nhượng nhà, đất cho ông Nguyễn Văn Giao với giá tiền 03 tỷ đồng, đã nhận tiền đặt cọc của ông Giao là 1.900.000.000đ và cam kết ngày 14/11/2011 sẽ cùng ông Giao đi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau đó vợ chồng Hải, Mận ký vào giấy chuyển nhượng. Sáng 14/11/2011, vợ chồng anh Giao cùng Hải, Mận đến Ngân hàng Công thương, anh Giao đã thanh toán số tiền mà Hải, Mận còn nợ ngân hàng là 555.940.728đ và lấy sổ đỏ về. Hải đưa sổ đỏ cho anh Giao giữ và hai bên đến Phòng công chứng số 3, tỉnh Hưng Yên làm thủ tục công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất. Sau khi lập Hợp đồng công chứng, hai bên về Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để làm thủ tục chuyển nhượng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Giao chị Lan, nhưng do hết giờ làm việc nên không làm được, Hải đi về, còn Mận đến nhà anh Giao để chốt nợ, đối trừ các khoản tiền và số tiền mua nhà còn phải trả. Cụ thể: Số tiền vợ chồng anh Giao mua nhà đất 03 tỷ đồng được trừ 1,4 tỷ tiền vợ chồng Hải nợ và 555.940.728đ chị Lan nộp tại Ngân hàng, ngoài ra, trừ thêm một số khoản tiền chị Lan cho Mận vay không viết giấy biên nhận và Mận bớt 50 triệu tiền bán đất. Số tiền mua đất vợ chồng anh Giao, chị Lan còn thiếu là 950 triệu đồng. Chị Lan viết giấy vay nợ với nội dung “Em Lan (Giao) vay chị Mận (Hải) 950.000.000 đồng” đề ngày 20/10/2011 âm lịch (tức 15/11/2011 dương lịch). Đồng thời, Mận yêu cầu nên chị Lan gạch chéo hai tờ giấy vay nợ của Hải, Mận ngày 08/9/2011 và 16/9/2011 với số tiền nợ 1,4 tỷ đồng. Trong khi hai bên tính toán, đối trừ tiền mua nhà đất thì có anh Vũ Văn Tô đến chơi và chứng kiến sự việc. Khoảng 4h sáng ngày 15/11/2011, Hải, Mận đến nhà anh Giao đòi số tiền 950 triệu đồng còn lại, nhưng anh Giao nói làm xong thủ tục mới trả hết tiền. Sau đó, Hải, Mận đi về và làm đơn yêu cầu dừng việc chuyển nhượng nhà đất nói trên gửi Ủy ban nhân dân huyện và Phòng Tài nguyên Môi trường. Khoảng 9h ngày 15/11/2011, vợ chồng anh Giao đến yêu cầu giao nhà thì Hải, Mận nói không bán nhà, đất nữa. Anh Giao đòi lại tiền cọc thì Hải, Mận nói chỉ nợ số tiền chị Lan nộp cho ngân hàng, còn số tiền 1,4 tỷ đồng thì Hải nói là không vay, còn Mận nói là có vay nhưng đã trả từ khi gạch chéo giấy vay nợ. Tối ngày 15/11/2011 nghe tin Mận bán nhà nên chị Đỗ Thị Thúy ở Yên Mỹ đến nhà Mận đòi nợ (Mận nợ chị Thúy 2.158.000.000 đồng), Mận nói “bán nhà nhưng trừ nợ, còn một số tiền họ chưa trả”. Chị Thúy không tin nên Mận mở két sắt lấy tờ giấy vay nợ có nội dung “Em Lan (Giao) vay chị Mận (Hải) 950.000.000 đồng” có chữ ký của chị Lan, anh Giao. Chị Thúy cầm giấy nhận nợ này đi phô tô, trả bản gốc cho Mận.

Kết luận giám định: Chữ viết Nguyễn Thị Mận và chữ ký Mận trên giấy chuyển nhượng nhà và đất đề ngày 13/11/2011 và trên 2 giấy vay nợ đề ngày 11/8/2011 và 19/8/2011 (âm lịch) là của Mận ký và viết ra bằng bút bi theo cách phổ thông; Chữ ký, viết trên giấy chuyển nhượng nhà và đất đề ngày 13/11/2011, chữ viết Hoàng Đình Hải và chữ ký trên 02 tờ giấy vay nợ đề ngày 11/8/2011 và 19/8/2011 (âm lịch) là của Hải viết và ký ra.

Quá trình điều tra, những người tham gia tố tụng khai báo như sau: Lời khai những người bị hại phù hợp với nội dung vụ án như đã nêu trên; Các bị cáo Hoàng Đình Hải, Nguyễn Thị Mận không nhận tội và cho rằng đã trả số tiền nợ 1,4 tỷ đồng vì giấy vay nợ đã được gạch chéo; việc không thực hiện hợp đồng bán nhà, đất nói trên cho vợ chồng Giao, Lan là do vợ chồng Giao, Lan không trả tiền mua nhà còn thiếu. Nhân chứng là anh Vũ Văn Tô thừa nhận, khi đến nhà anh Giao chơi, anh Tô ngồi bàn uống nước cùng anh Giao, chị Lan và Mận, nên chứng kiến việc hai bên thỏa thuận tiền mua bán đất; chứng kiến việc Mận bảo chị Lan viết giấy nhận nợ đưa cho Mận giữ; Mận có nói “Mợ gạch chéo đi cho chị hai tờ giấy nợ”, chị Lan lấy 02 tờ giấy và cầm bút gạch chéo. (BL 262-264; 582-584). Nhân chứng chị Đỗ Thị Thúy khai: tối 15/11/2011, đến nhà Mận đòi nợ, Mận nói là “bán nhà nhưng trừ nợ, còn một số tiền chưa trả” … Mận tự mở két sắt lấy tờ giấy vay nợ có nội dung “Em Lan (Giao) vay chị Mận (Hải) 950.000.000 đồng”, nên chị Thúy phô tô tờ giấy này và đưa lại Mận giấy gốc (BL: 269-277; 580-581).

Truy tố, xét xử sơ thẩm lần 1: Cáo trạng số 81 ngày 20/11/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y truy tố Hoàng Đình Hải, Nguyễn Thị Mận về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt số tiền 1,4 tỷ đồng của anh chị Giao, Lan theo Điểm a Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015); Bản án sơ thẩm số 13 ngày 05/4/2013 của Tòa án nhân dân xử phạt Hoàng Đình Hải 13 năm tù; Nguyễn Thị Mận 12 năm tù. Sau khi xét xử, bị cáo Hải kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Mận kháng cáo kêu oan; người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo. Bản án phúc thẩm số 623 ngày 30/9/2013 của Tòa phúc thẩm quyết định hủy án sơ thẩm để điều tra lại. Lý do hủy án: Chưa đủ căn cứ kết luận các bị cáo chiếm đoạt 1,4 tỷ đồng của anh Giao, chị Lan.

Truy tố, xét xử sơ thẩm lần 2: Cáo trạng số 03 ngày 23/01/2014 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y truy tố Hải, Mận về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 1,4 tỷ đồng của anh Giao, chị Lan theo Điểm a Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự; Bản án sơ thẩm số 21 ngày 15/4/2014 của Tòa án nhân dân xử phạt Hoàng Đình Hải 13 năm tù, Nguyễn Thị Mận 13 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Sau khi xét xử, các bị cáo Hải, Mận kháng cáo kêu oan; người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo. Bản án phúc thẩm số 308 ngày 28/12/2015 của Tòa phúc thẩm quyết định hủy án sơ thẩm để điều tra lại. Lý do hủy án: chưa làm rõ trước khi bán nhà đất thì bị cáo Hải, Mận đã trả anh Giao, chị Lan khoản nợ 1.538.000.000đ hay chưa; bị cáo Hải, Mận có ý định chiếm đoạt tiền của anh Giao, chị Lan khi nào; nếu bán nhà để trừ nợ vay nhưng sau khi gạch giấy vay nợ lại không bán nhà đất và phủ nhận nợ, thì việc bàn bạc thống nhất giữa Hải và Mận ra sao để có căn cứ xác định đồng phạm cũng như vai trò của các bị cáo trong vụ án.

Truy tố, xét xử sơ thẩm lần 3: Cáo trạng số 39 ngày 18/5/2016 của Viện kiểm sát truy tố Hoàng Đình Hải, Nguyễn Thị Mận về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt số tiền 1,4 tỷ đồng của anh chị Giao, Lan theo Điểm a Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự; Bản án sơ thẩm số 49 ngày 09/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Y áp dụng Điểm a Khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Đình Hải 13 năm tù, Nguyễn Thị Mận 12 năm tù tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Quá trình tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm lần 3 có các quan điểm như sau:

Quan điểm 1: Việc chị Lan gạch chéo 02 Giấy vay tiền không làm mất đi số tiền nợ 1,4 tỷ đồng. Trên thực tế, số tiền 1,4 tỷ đồng trên 02 giấy vay tiền đã được chuyển thành tiền đặt cọc mua nhà, đất ghi trong “Giấy chuyển nhượng nhà, đất” có sự ký nhận của vợ chồng Hải, Mận. Sau đó, hai bên đã làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng tại Văn phòng Công chứng số 3 và đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên Môi trường để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Giao, chị Lan, nhưng do hết giờ làm việc nên chưa làm được. Đến 9h ngày 15/11/2011, vợ chồng anh Giao đến yêu cầu giao nhà thì Hải, Mận nói không bán nhà, đất nữa, anh Giao đòi lại tiền cọc thì Hải, Mận nói chỉ nợ số tiền chị Lan nộp cho ngân hàng, còn số tiền 1,4 tỷ đồng thì Hải nói là không vay; Mận nói là có vay nhưng đã trả từ khi gạch chéo giấy vay nợ. Như vậy, việc tranh chấp số tiền 1,4 tỷ sau này là tiền thanh toán Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất. Vụ án này đã bị hủy để điều tra lại nhiều lần nhưng không chứng minh được hành vi phạm tội của các bị cáo. Nên theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm phải tuyên các bị cáo không phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Quan điểm thứ hai: Cần tiếp tục hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nhằm làm rõ ý thức chủ quan của các bị cáo; thời điểm có ý định chiếm đoạt tài sản (trước hay sau khi gạch chéo 2 giấy vay tiền); giá nhà đất thực tế trên thị trường tại khu vực thôn Ông Tố thời điểm đó như thế nào để làm căn cứ đánh giá lời khai của các bị cáo và các bị hại; số liệu về việc nợ tiền bán nhà đất giữa bị cáo và bị hại sau khi đối trừ các khoản nợ vay và tiền trả ngân hàng là không thống nhất, không phù hợp với số tiền mua nhà còn thiếu, cụ thể: 03 tỷ đồng tiền mua nhà trừ đi (1,4 tỷ tiền vợ chồng Hải nợ cộng với 555.940.728đ chị Lan nộp tại Ngân hàng và 50 triệu Mận bớt tiền bán đất) thì kết quả còn 994.059.272 đồng, không phù hợp với số tiền mua đất vợ chồng anh Giao, chị Lan còn thiếu là 950 triệu đồng mà chị Lan đã viết giấy vay nợ. Do đó, các nội dung này tại Bản án phúc thẩm số 308/2015/HSPT đã yêu cầu nhưng quá trình điều tra lại chưa thực hiện, nên cần tiếp tục hủy toàn bộ bản án để điều tra nhằm làm rõ, xử lý nghiêm minh các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Với những chứng cứ đã thu thập và qua diễn biến các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, chúng tôi nhận thấy rằng việc các bị cáo không tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ là tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng dân sự, các bị cáo phủ nhận các khoản nợ và chối bỏ việc đã ký kết hợp đồng chỉ nhằm trốn tránh trách nhiệm, không có căn cứ để buộc tội các bị cáo Hoàng Đình Hải, Nguyễn Thị Mận phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án đã tuyên.

Trường hợp khác: Vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Trần Thị Bích Ngọc là cổ đông của Công ty CPTM Bình Lục do bị cáo Nguyễn Anh Trọng làm chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc công ty, vì có quan hệ họ hàng với bà Trần Thị Năm ở thôn Xuân Linh, xã Thuỷ Xuân Tiên, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, nên vào tháng 3/2011, bị cáo Ngọc đưa ra thông tin được Công ty CPTM Bình Lục thanh lý tài sản khu vực ăn uống, nhà nghỉ của công ty cho bà Năm biết và rủ bà Năm góp tiền để mua tài sản thanh lý, nhưng bà Năm nói không có tiền để tham gia mua tài sản, do đó, bà Năm giới thiệu bị cáo Ngọc đến gặp ông Nguyễn Văn Xương để thỏa thuận vay 1,3 tỷ đồng mua thanh lý tài sản của công ty. Tuy nhiên, một thời gian sau, công ty Cổ phần thương mại Bình Lục không có kế hoạch thanh lý tài sản khu vực ăn uống, nhà nghỉ mà chỉ có chủ trương xây dựng khách sạn.

Đến tháng 3/2011, bà Năm dẫn ông Xương xuống nhà nghỉ thuộc Công ty Cổ phần thương mại Bình Lục để kiểm tra thực hư việc mua tài sản được thanh lý. Tại đây, bị cáo Ngọc gặp ông Xương đặt vấn đề vay 1,3 tỷ đồng. Sau khi kiểm tra, xác nhận thông tin, ông Xương đã mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến nhà anh Doãn Tiến Hải thế chấp vay số tiền 1,3 tỷ đồng với lãi suất 3%/tháng. Sau khi vay được tiền, ông Xương bảo bà Năm điện cho bị cáo Ngọc lên Hoà Bình lấy tiền và mang số tiền 1,3 tỷ đồng đến nhà em họ là ông Đỗ Xuân Ảnh nói chuyện về việc cho bị cáo Ngọc vay tiền để mua tài sản thanh lý, thì ông Ảnh nói: “Anh phải xuống tận nơi kiểm tra có đúng Ngọc vay tiền để mua tài sản thanh lý không hay vay tiền về chơi lô đề, nếu đúng là mua tài sản thanh lý thì mới cho vay”. Thấy vậy, ông Xương gửi lại số tiền 1,3 tỷ đồng nhờ ông Ảnh giữ hộ.

Để ông Xương tin tưởng rằng việc vay tiền để mua tài sản thanh lý của Công ty là thật, nên bị cáo Ngọc đã bàn bạc với bị cáo Trọng lập Biên bản thanh lý tài sản khống số 15 ngày 16/5/2011, biên bản này do bị cáo Trọng chỉ đạo Nguyễn Gia Lâm, Trưởng phòng hành chính soạn thảo, sau đó bị cáo Trọng, Ngọc chỉnh sửa nội dung biên bản thanh lý phù hợp với nội dung mà bị cáo Ngọc đã giao dịch với bà Năm, ông Xương khi hỏi vay tiền, rồi bị cáo Trọng đã ký tên, đóng dấu với tư cách thay mặt Công ty Cổ phần thương mại Bình Lục (đại diện) thanh lý tài sản khống cho bị cáo Ngọc. Sau khi được xem biên bản khống, ông Xương tin tưởng nên ngày 16/5/2011 đã cho bị cáo Ngọc vay số tiền 1,3 tỷ đồng với lãi suất theo thỏa thuận, hẹn sau 06 tháng sẽ thanh toán trả lại số tiền vay.

Sau khi vay được tiền, theo chỉ đạo của bị cáo Trọng, bị cáo Ngọc không nộp vào Công ty Cổ phần thương mại Bình Lục để mua thanh lý tài sản mà nộp số tiền 1,2 tỷ đồng vào tài khoản cá nhân của bà Trần Thị Hồng, là thủ quỹ của Công ty. Số tiền 100 triệu đồng còn lại, bị cáo Trọng đưa cho bị cáo Ngọc sử dụng cá nhân. Số tiền số tiền 1,2 tỷ đồng, Trọng và Ngọc cùng thống nhất sử dụng để đối trừ các khoản nợ cá nhân, trong đó Trọng hưởng số tiền 391.537.000đ, Ngọc chiếm sử dụng 908.463.000đ.

Quá thời hạn trả tiền, bị cáo Ngọc không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết, Ông Xương đã nhiều lần đến đòi nhưng Ngọc không trả, khi ông Xương làm đơn tố cáo về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo Ngọc, thì bị cáo Trọng chỉ đạo kế toán, thủ quỹ của Công ty Cổ phần thương mại Bình Lục lập khống chứng từ thu, chi của Công ty để hợp pháp hoá số tiền vay mua thanh lý tài sản được nộp về Công ty thật để nhằm mục đích che dấu hành vi phạm tội. Sau đó, Nguyễn Anh Trọng đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 03/4/2015, Trọng đã ra đầu thú. Trong quá trình điều tra, bị cáo Trọng đã tác động gia đình giao nộp số tiền 391.537.000đ để khắc phục hậu quả. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử lần 1 tuyên phạt bị cáo Ngọc 15 năm, Trọng 12 năm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trọng và Ngọc khẳng định không bàn bạc nhau về việc lập Biên bản thanh lý tài sản số 15 ngày 16/5/2011 để lừa dối chiếm đoạt tài sản của ông Xương, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cấp sơ thẩm chưa làm rõ hành vi phạm tội và ý thức chiếm đoạt của các bị cáo nên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại nhằm làm rõ những nội dung trên.

Kết quả điều tra lại xác định: Sau khi vay được số tiền 1,3 tỷ đồng của ông Xương, bị cáo Ngọc đã lấy số 1,2 tỷ đồng nộp vào tài khoản cá nhân Trần Thị Hồng, sau đó toàn bộ số tiền này đã được Trọng, Ngọc sử dụng chi tiêu hết theo chỉ đạo của Trọng, không được chuyển vào tài khoản của Công ty Bình Lục.

Việc bị cáo Trọng và Ngọc khẳng định không bàn bạc nhau về việc lập Biên bản thanh lý tài sản số 15 ngày 16/5/2011 để lừa dối ông Xương chiếm đoạt tài sản là thể hiện sự quanh co, chối tội của các bị cáo. Kết quả điều tra cho thấy, bị cáo Trọng và Ngọc thống nhất ý chí bằng việc Trọng chỉ đạo Lâm soạn thảo Biên bản thanh lý số 15, trước khi đánh máy Trọng, Ngọc còn sửa bản thảo mục đích là để ông Xương nhìn thấy bản thanh lý này mới cho vay tiền. Mặt khác, Trọng thừa nhận sau Đại hội cổ đông mới lập Biên bản thanh lý tài sản chính thức bán cho bị cáo Ngọc với trị giá 1 tỷ đồng.

Về nội dung bị cáo Ngọc cho rằng Công ty đã thực hiện việc huy động vốn của các cổ đông để trả tiền cho ông Xương thì kết quả điều tra cho thấy nội dung trên bị cáo Ngọc mới nói cho bà Năm biết, số còn lại 38 cổ đông của công ty đều không xác định có việc Ngọc đặt vấn đề huy động vốn để xây dựng khách sạn. Việc xây dựng nhà ăn uống khu vực khách sạn, nhà nghỉ trên diện tích đất của Công ty Cổ phần thương mại Bình Lục là sự thật, dự án này được phê duyệt tại Quyết định số 536 ngày 24/4/2012 của UBND tỉnh, sau khi Ngọc vay tiền của ông Xương được hơn 11 tháng.

Theo lời khai của Nguyễn Gia Lâm thì Biên bản thanh lý tài sản số 15 ngày 16/5/2011 là để giải quyết công việc gia đình cho Ngọc, sau đó, Ngọc còn nhờ Lâm soạn thảo hộ bản cam kết là sử dụng cho việc gia đình.

Trong vụ án này, Kiểm sát viên cần sử dụng những chứng đã được làm rõ trong quá trình điều để tranh tụng như sau: Mặc dù, các bị cáo Trần Thị Bích Ngọc và Nguyễn Anh Trọng không thừa nhận hành vi phạm tội, tuy nhiên căn cứ lời khai của ông Xương, bà Năm, ông Lĩnh, ông Ảnh, Trần Thị Hồng thủ quĩ và kết luận giám định xác định được bị cáo Trần Thị Bích Ngọc có đưa ra thông tin Công ty Bình Lục thanh lý tài sản trước ngày 16/5/2011, nhưng thực tế tại thời điểm này chưa có chủ trương thanh lý tài sản; từ đó cho thấy đã có đủ cơ sở xác định Biên bản thanh lý tài sản số 15 ngày 16/5/2011 là lập khống dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Anh Trọng, Trần Thị Bích Ngọc, còn Nguyễn Gia Lâm chịu trách nhiệm soạn thảo, sau đó Trọng, Ngọc sửa hoàn chỉnh, thời điểm trên Công ty hoàn toàn chưa có chủ trương bán thanh lý tài sản, mãi đến ngày 22/7/2012 mới thanh lý chính thức cho bị cáo Ngọc 1 tỷ đồng.

Trước khi ông Xương quyết định cho bị cáo vay tiền, ông Xướng đã đến Công ty Bình Lục gặp ông Trọng để tìm hiểu đúng có hay không việc thanh lý tài sản, khi có thông tin (gian dối) từ bị cáo Trọng, ông Xương mới quyết định chuyển tiền cho bị cáo Ngọc vay. Quá trình điều tra cũng xác định được thời điểm này, Công ty không có chủ trương thanh lý tài sản, các cuộc họp cũng như lấy lời khai của các nhân viên đều không xác định có chủ trương như vậy; anh Lâm (Phó giám đốc) thừa nhận, việc lập Hợp đồng số 15 mục đích cho Ngọc giải quyết việc cá nhân; mặt khác, Biên bản thanh lý số 45 ngày 22/7/2012 thanh lý tài sản cho Trần Thị Bích Ngọc với tổng số tiền 1 tỷ đồng có Biên bản họp cổ đông. Sau khi nhận được số tiền 1,3 tỷ đồng, Trọng chỉ đạo Hồng gửi 6 số tiết kiệm (trị giá 1,2 tỷ đồng) và rút ra, gửi lại nhiều lần, sau đó cùng Ngọc rút hết số tiền chia nhau sử dụng.

Việc bị cáo Trần Thị Bích Ngọc tung tin không đúng sự thật, rồi bàn bạc thống nhất cùng với bị cáo Nguyễn Anh Trọng làm giả hợp đồng thanh lý tài sản để cho ông Nguyễn Văn Xương nhầm tưởng là bị cáo Ngọc được giao thanh lý tài sản nên đã đi cầm cố nhà cho bị cáo vay nợ 1,3 tỷ đồng, và thực tế bị cáo dùng số tiền vay đó để sử dụng mục đích khác, đến nay không trả nợ cho người bị hại, nên hành vi của các bị cáo đã thỏa mãn cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội phạm mà các bị cáo thực hiện đã hoàn thành. Do đó, việc Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội danh về tội danh như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. /.

Ths. Võ Văn Tài – Phó Trưởng khoa kiểm sát Hình sự
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP.Hồ Chí Minh