Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự

TS. Nguyễn Văn Khoát
Hiệu trưởng Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh

Trong tố tụng hình sự (TTHS) có nhiều mối quan hệ tố tụng hình thành trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhưng mối quan hệ tố tụng giữa Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQCSĐT) là mối quan hệ tố tụng đặc biệt giữa hai cơ quan cùng thực hiện chức năng buộc tội. Mối quan hệ này hình thành xuất hiện khi hai cơ quan này cùng giải quyết vụ án hình sự (VAHS) và xuyên suốt quá trình khởi tố, điều tra VAHS. Thực hiện tốt mối quan hệ tố tụng giữa VKSND và CQCSĐT là yếu tố bảo đảm cho các hoạt động buộc tội chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; góp phần hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong TTHS.

I. Một số vấn đề chung về quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự

1. Sơ lược vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam

– Cơ q uan Cảnh sát điều tra : Theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) thì cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Căn cứ vào Điều 4, Điều 5 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 xác định: Hệ thống CQĐT gồm: CQĐT của Công an nhân dân (CAND), CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của VKSND tối cao. CQĐT của CAND gồm có: Cơ quan an ninh điều tra và CQCSĐT. CQCSĐT được thành lập ở ba cấp, gồm: CQCSĐT Bộ Công an; CQCSĐT Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; CQCSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Như vậy, về địa vị pháp lý thì CQCSĐT là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng được quy định trong BLTTHS. Cơ quan cảnh sát điều tra là chủ thể chính của hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra nên hoạt động tố tụng cơ bản, chủ yếu của CQCSĐT là điều tra, tìm kiếm, thu thập chứng cứ để làm rõ toàn bộ sự thật của VAHS thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT; lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố bị can, tạo tiền đề cho hoạt động truy tố, xét xử. Nếu phân định chức năng tố tụng (chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử) thì điều tra thuộc chức năng buộc tội, hay nói cách khác, CQCSĐT thực hiện chức năng buộc tội trong TTHS nhưng CQCSĐT không thực hiện toàn bộ chức năng buộc tội mà chỉ giới hạn trong phạm vi thu thập, cung cấp đủ các chứng cứ, tài liệu để VKSND tiếp tục thực hiện việc buộc tội bị can bằng hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn các lệnh, quyết định theo quy định của pháp luật, thực hiện việc truy tố bị can ra trước TA và buộc tội bị cáo tại phiên tòa. Để thực hiện chức năng trên, CQCSĐT có những nhiệm vụ, quyền hạn là: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao; tiến hành điều tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa[1].

Viện Kiểm sát nhân dân: VKSND là một hệ thống cơ quan nhà nước được tổ chức độc lập thành bốn cấp phù hợp với hệ thống tổ chức của TAND gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh[2]. VKSND có hai chức năng cơ bản được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, đó là: Thực hành quyền công tố (THQCT), kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Khi THQCT, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Quyết định việc buộc tội và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra, truy tố; Khi THQCT, VKSND có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Quyết định việc buộc tội và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra, truy tố; tham gia điều tra; đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ buộc tội; truy tố bị can; đọc cáo trạng, trình bày luận tội, tranh tụng tại phiên tòa; kháng nghị bản án, quyết định của TA trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội.

Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật[3]. Cũng giống như THQCT, Viện kiểm sát nhân dân là chủ thể duy nhất được Nhà nước giao chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS với những nhiệm vụ, quyền hạn chính sau: Kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý vi phạm pháp luật trong TTHS, áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; Kiểm tra, yêu cầu, kiến nghị tổ chức, cá nhân giải quyết khiếu nại, tố cáo, khắc phục, chấn chỉnh những vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo trong TTHS[4].

2. Cơ sở làm phát sinh và tồn tại mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự

Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Theo nguyên tắc này, trong bộ máy Nhà nước có sự phân công như sau: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. TAND là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, VKSND là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Mặc dù, mỗi cơ quan trong bộ máy Nhà nước được phân công thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất định nhưng phải phối hợp với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm dụng quyền lực khi thực thi chức năng, nhiệm vụ trong thực tiễn đời sống xã hội. Từ đó làm phát sinh mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Trong tố tụng hình sự, VKSND và CQCSĐT, mỗi cơ quan được phân công thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng phải phối hợp với nhau để thực hiện nhiệm vụ chung của BLTTHS là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm, đồng thời phải kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm dụng quyền lực trong khởi tố điều tra, truy tố. Từ đó làm phát sinh mối quan hệ trong TTHS.

Thứ hai, xuất phát từ mô hình TTHS của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng phát sinh và tồn tại còn tùy thuộc vào mô hình tố tụng của các nước theo các hệ thống pháp luật khác nhau. Đối với các quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ như Anh, Mỹ và các nước thuộc liên hiệp Anh, mô hình tố tụng tranh tụng có sự độc lập giữa CQĐT với cơ quan Công tố, giữa cơ quan Công tố và TA, do đó, không phát sinh và tồn tại mối quan hệ giữa các cơ quan này trong lĩnh vực TTHS. Đối với các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa mà điển hình như các nước: Pháp, Đức, Italia thì mô hình tố tụng tranh tụng đan xen xét hỏi. Ở các quốc gia này, mô hình tổ chức công tố mạnh. Theo đó, cơ quan Công tố chỉ đạo hoạt động điều tra, do đó, giữa các cơ quan tư pháp có phát sinh và tồn tại mối quan hệ giữa CQĐT với Cơ quan Công tố.

Đối với Việt Nam, từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thì vấn đề tranh tụng đã trở thành nguyên tắc và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức TAND năm 2014, BLTTHS năm 2015. Theo đó, mô hình tố tụng ở Việt Nam được xác định là mô hình tố tụng tranh tụng kết hợp với thẩm vấn. Nét đặc thù của mô hình tố tụng tranh tụng kết hợp với thẩm vấn của Việt Nam thể hiện ở chỗ: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm CQĐT (CQCSĐT), Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan này có quyền đồng thời cũng có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Ngoài ra, trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan này còn có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Như vậy, từ chính mô hình tố tụng tranh tụng kết hợp thẩm vấn ở Việt Nam đã làm phát sinh và tồn tại mối quan hệ tất yếu giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT.

3. Khái niệm, nội dung, hình thức của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự

3.1. Khái niệm quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự

Trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam, CQCSĐT (CQĐT) và VKSND là hai cơ quan tiến hành tố tụng. Như đã đề cập, CQCSĐT có chức năng điều tra thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; VKSND có chức năng THQCT, kiểm sát điều tra (KSĐT), kiểm sát xét xử (KSXX), thực hiện truy tố người phạm tội ra trước TA và buộc tội người đó trước phiên tòa. Giữa VKSND và CQCSĐT từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình làm phát sinh các mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa hai cơ quan này là mối quan hệ có tính tất yếu, khách quan và là mối quan hệ đặc biệt, giữa hai cơ quan cùng chức năng buộc tội. Đây cũng là mối quan hệ phổ biến, thể hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong hoạt động điều tra, truy tố VAHS. Mối quan hệ này còn được gọi là mối quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQCSĐT. Từ đây có thể hiểu: Quan hệ giữa VKSND với CQCSĐT trong TTHS là quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau, phát sinh từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra các loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT, có tác dụng hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau, đồng thời kiểm tra, giám sát các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhau, nhằm đảm bảo cho hoạt động buộc tội của Nhà nước đối với các loại tội phạm này khách quan, chính xác, đúng pháp luật.

3.2. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự được thể hiện như sau:

– Quan hệ phối hợp: Trong tố tụng hình sự, VKSND và CQCSĐT đều có mục đích bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi làm tội, làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong VAHS để làm cơ sở truy tố, xét xử. Mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan này là có tính tất yếu, khách quan, được hình thành trong quá trình mỗi cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết nguồn tin tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố VAHS. Tuy nhiên, mỗi cơ quan đều có chức năng khác nhau, nên sự phối hợp giữa hai cơ quan này không phải là sự “hợp lực” để cùng khởi tố, điều tra, truy tố mà được thực hiện bằng những cách thức, mức độ nhất định, trong từng nội dung của chế định TTHS nhất định và trong từng VAHS cụ thể. Nội dung của mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT thể hiện ở việc cả hai cơ quan đều phải tạo điều kiện để cùng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nhau. Trong đó CQCSĐT phải phối hợp với VKSND, bảo đảm để VKSND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin, khởi tố, điều tra; ngược lại VKSND phải phối hợp, tạo điều kiện và bảo đảm để CQCSĐT thực hiện tốt các hoạt động điều tra theo chức năng của mình, phát hiện tội phạm kịp thời, chính xác, đúng pháp luật. Trong từng chế định TTHS nhất định và tùy thuộc vào tính chất của từng VAHS cụ thể mà nội dung của mối quan hệ phối hợp thể hiện ở các vấn đề cụ thể như: VKSND và CQCSĐT bàn bạc, trao đổi về những vấn đề cần làm rõ, những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự; VKSND và CQCSĐT chuyển các quyết định, hồ sơ, tài liệu cho nhau để xem xét, đánh giá; VKSND và CQCSĐT cùng nhau xây dựng, thống nhất các kế hoạch, phương hướng điều tra; VKSND tiếp nhận hồ sơ vụ án kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và vật chứng, phối hợp với CQCSĐT trong việc thực hiện việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều tra, truy tố…

Quan hệ chế ước: Quan hệ chế ước lẫn nhau giữa VKSND và CQCSĐT là sự kiểm tra, giám sát, phát hiện các sai sót, thiếu sót của nhau để khắc phục và sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau giữa VKSND và CQCSĐT. Trong giải quyết nguồn tin tội phạm, khởi tố, điều tra VAHS, việc thực hiện nội dung quan hệ chế ước giữa VKSND và CQCSĐT là hết sức quan trọng, bảo đảm cho quá trình này đi đúng hướng và đúng quy định của pháp luật TTHS. Nội dung chế ước giữa VKSND và CQCSĐT không phải mang tính tổng thể, theo kiểu có tính tư tưởng chung chung mà nội dung chế ước được thực hiện trong từng hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cụ thể. Trong đó VKSND giám sát hoạt động điều tra của CQCSĐT; phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng của CQCSĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQCSĐT, bắt buộc CQCSĐT phải thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKSND, nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra tuân thủ đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng, ngăn ngừa mọi hoạt động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Ở chiều ngược lại, CQCSĐT cũng kiểm soát lại một số hoạt động tố tụng của VKSND trong khi THQCT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS nhưng mức độ kiểm soát của CQCSĐT đối với VKSND chỉ dừng ở hoạt động theo dõi, giám sát chứ không có quyền phê chuẩn, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định của VKSND. Nếu phát hiện VKSND cùng cấp có hành vi, quyết định tố tụng không có căn cứ pháp luật thì CQCSĐT kiến nghị với VKSND để hủy bỏ, khắc phục; nếu VKSND cùng cấp không nhất trí thì CQCSĐT kiến nghị VKSND cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho CQCSĐT đã kiến nghị.

3.3. Về hình thức của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT:

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cơ bản của mỗi chủ thể trong mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được phân định thành hình thức phối hợp và hình thức chế ước; Căn cứ vào tính chất hoạt động giám sát của Nhà nước, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được thực hiện bằng hình thức trực tiếp và hình thức gián tiếp; Căn cứ vào cách thức thực hiện mối quan hệ có hình thức trao đổi bằng lời nói và hình thức trao đổi bằng văn bản; Căn cứ nội dung mối quan hệ tố tụng, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được biểu hiện cụ thể trong các hành vi TTHS.

II. Một số vấn đề lưu ý trong quá trình thực hiện quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh lâu dài, đầy cam go, phức tạp. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng có nội dung nhấn mạnh “…công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận[5]. Theo số liệu thống kê, trong 10 năm, từ năm 2012 đến năm 2021, tổng số vụ án tham nhũng được CQCSĐT khởi tố là 4.644 vụ, 10.167 bị can; VKSND truy tố 2.568 vụ, 5.933 bị can[6]. Đối với tội phạm chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, trong 03 năm từ 2019 đến 2021, tổng số vụ được CQCSĐT khởi tố là 215 vụ, 901 bị can; VKSND truy tố 172 vụ, 692 bị can[7].

Quan hệ giữa CQCSĐT và VKSND trong việc giải quyết các vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ được thực hiện bắt đầu từ khi tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến giai đoạn khởi tố, điều tra. Mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được thực hiện trên cơ sở quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật Tổ chức TAND năm 2014, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 và các Thông tư liên tịch giữa các cơ quan tư pháp Trung ương và các cơ quan có liên quan.

Trong quá trình thực hiện chức năng THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra các vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, ngoài việc thực hiện quan hệ với ĐTV như các vụ án hình sự khác nói chung thì KSV được phân công cần phải quan tâm và thực hiện các quan hệ có tính đặc thù sau đây:

Thứ nhất, trong giai đoạn tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố về vụ việc có dấu hiệu của tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, KSV cần lưu ý.

– Đối với tố giác, tin báo do cá nhân cung cấp về vụ, việc có dấu hiệu tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng xảy ra ở cấp xã, trường học, ban ngành cấp huyện có ghi rõ họ tên người tố cáo, người bị tố cáo có kèm theo tài liệu chứng minh thì sau khi nhận được thông báo của CQCSĐT, Kiểm sát viên vào sổ thụ lý và phối hợp với ĐTV trong việc xây dựng kế hoạch kiểm tra xác minh. Trong thực tế, đơn tố cáo loại này thường kèm theo tố cáo các hành vi vi phạm khác nhau như: Làm mất danh dự, trù dập người có khiếu nại,… thì KSV trao đổi với ĐTV khi kiểm tra xác minh cần tập trung vào nội dung tố cáo hành vi tham nhũng và chú ý khai thác triệt để những thông tin, tài liệu mà họ nắm được tạo thuận lợi cho hoạt động kiểm tra, xác minh.

– Đối với tố giác, tin báo về vụ, việc có dấu hiệu của tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ mà người tố cáo yêu cầu giữ bí mật họ tên… thì KSV phải phối hợp với ĐTV trong việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; trong việc bảo đảm bí mật về họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo khi có yêu cầu và áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo khỏi sự trả thù của người bị tố cáo; phối hợp trong việc ban hành các văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến hành vi có dấu hiệu của tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ.

– Đối với các tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố về hành vi có dấu hiệu của tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm thì KSV phối hợp với ĐTV nghiên cứu nguồn tin, báo cáo với lãnh đạo VKSND và lãnh đạo CQCSĐT để báo cáo với Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; báo cáo Ban thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy và Cấp ủy địa phương để xem xét có đưa vào diện chỉ đạo của các cơ quan này hay không. Sau khi kết thúc giải quyết nguồn tin và trước khi tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can, KSV phải phối hợp chặt chẽ với ĐTV trong việc xác định khởi tố về tội danh gì (những tội danh gì), khởi tố bị can (các bị can) về tội danh gì (những tội danh gì) trong số các tội phạm về tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ để báo cáo với lãnh đạo VKSND và lãnh đạo CQCSĐT xem xét, thống nhất báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Ban thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy; Ban nội chính Thành ủy, Tỉnh ủy.

Thứ hai, trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, KSV cần chú ý thực hiện mối quan hệ với ĐTV trong các hoạt động sau đây:

– Để bảo đảm việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì sau khi có quyết định khởi tố vụ án KSV trao đổi, thống nhất với ĐTV trong việc xác định những đối tượng nào cần phải áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, các biện pháp tố tụng đặc biệt nào được áp dụng; thời gian áp dụng. Sau khi đã trao đổi, thống nhất, KSV và ĐTV báo cáo với lãnh đạo VKS và lãnh đạo CQCSĐT để báo cáo Ban thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy và tổ chức họp liên ngành và quyết định việc ra quyết định khởi tố vụ án, ra quyết định, lệnh, phê chuẩn quyết định, lệnh khởi tố bị can, bắt bị can để tạm giam, khám xét, thu giữ; ra quyết định và phê chuẩn quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (nhằm bảo đảm giá trị pháp lý của các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được từ hoạt động điều tra này).

– Kiểm sát viên phối hợp với ĐTV trong việc xác định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về hành vi có dấu hiệu của tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan tới chức vụ trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin; bị can phạm tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế có liên quan đến chức vụ trong giai đoạn điều tra cần phải áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất nhập cảnh, thời hạn tạm hoãn xuất nhập cảnh để báo cáo Thủ tướng, Phó Thủ tướng CQCSĐT ra quyết định và báo cáo lãnh đạo VKS trước khi thi hành.

– Từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy hầu hết các vụ án về tội phạm tham những, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, các đối tượng phạm tội thường bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam và tiến hành khám xét. Lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét trong trường hợp này của CQCSĐT phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Chính vì vậy, lãnh đạo VKS phải cử KSV tham gia việc thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam và lệnh khám xét. Đối với các vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan đến chức vụ, hoạt động khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do đó KSV phải phối hợp chặt chẽ với ĐTV chủ trì khám xét trong việc xác định các tài liệu, đồ vật, đặc biệt là các phương tiện có chứa dữ liệu điện tử, tài sản cần phải thu giữ; đồ vật, tài sản cần phải niêm phong, số tiền phong tỏa tài khoản; việc đóng gói bảo quản, vận chuyển… cũng như việc tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình khám xét.

– Kiểm sát viên cần phối hợp với ĐTV trong việc xác định loại giấy tờ, tài liệu, hóa đơn, chứng từ đã thu thập được; loại phương tiện điện tử như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy fax, điện thoại, máy ghi âm, ghi hình,… các thiết bị ngoại vi, các tài liệu kèm theo cần phải gửi đi giám định; nội dung yêu cầu trưng cầu giám định; tên tổ chức, người được trưng cầu giám định, thời hạn giám định; phối hợp với ĐTV trong việc đánh giá, sử dụng kết quả giám định đặc biệt là giám định kỹ thuật số và điện tử.

– Kiểm sát viên cần phối hợp với ĐTV trong việc xác định loại tài sản là đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng, giấy tờ có giá trị; cần phải định giá, số lượng, tên gọi; tên Hội đồng định giá tài sản; nội dung, yêu cầu định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản; đánh giá sử dụng kết quả định giá tài sản.

– Trong quá trình điều tra và trước khi kết thúc điều tra đối với các vụ án thuộc diện theo dõi của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Ban thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy; Ban nội chính Thành ủy, Tỉnh ủy, tùy từng trường hợp cụ thể, đặc biệt là những vụ án còn có quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ thì KSV và ĐTV phải báo cáo với lãnh đạo VKSND và lãnh đạo CQCSĐT để tổ chức họp liên ngành có sự tham gia của đại diện của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Ban thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy; Ban nội chính Thành ủy, Tỉnh ủy.

– Trước khi kết thúc điều tra vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ, tội phạm kinh tế có liên quan tới chức vụ, KSV phải phối hợp với ĐTV trong việc kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ để thống nhất đưa vào bản kết luận điều tra. Trường hợp còn có ý kiến khác nhau thì phải báo cáo với lãnh đạo của từng cơ quan để tiến hành hợp liên ngành giải quyết./.

[1] Điều 8 Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015

[2] Điều 49 Luật Tổ chức VKSND năm 2014

[3] Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014

[4] Khoản 3 Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014

[5] Xem https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/phai-tiep-tuc-day-manh-phong-chong-tham-nhung-quyet-liet-thuong-xuyen-lien-tuc-voi-quyet-tam-cao-hon-manh-me-hon-hieu-qua-hon–627932/

[6] Tổng hợp từ số liệu của Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSND tối cao.