Một số khó khăn, vướng mắc trong áp dụng biện pháp áp giải theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự và kiến nghị hoàn thiện

Hoàng Ngọc Anh – Giảng viên Khoa Tội phạm học và Điều tra tội phạm,
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh

             TÓM TẮT NỘI DUNG

Trong thời gian qua việc áp dụng biện pháp áp giải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đã đạt được những kết quả khả quan, tuy nhiên còn có những vướng mắc nhất định. Bài viết nhận diện một số vướng mắc, bất cập trong quy định về biện pháp áp giải của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện.

Từ khóa: Biện pháp áp giải; khó khăn, vướng mắc; kiến nghị hoàn thiện.

Áp giải được hiểu là một biện pháp cưỡng chế trong hoạt động tố tụng hình sự và được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người làm chứng trong trường hợp họ cố ý không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà không có lý do chính đáng và việc không có mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể thế nào là áp giải và cùng với việc quy định một cách rời rạc, chưa có hệ thống đã khiến cho việc áp dụng quy định về áp giải gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Để khắc phục những hạn chế đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng đối với chế định này, cụ thể, lần đầu tiên nhà làm luật đã quy định rất cụ thể về khái niệm áp giải tại điểm k khoản 1 Điều 4 như sau: “Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử”. Với việc quy định cụ thể khái niệm áp giải như nêu trên giúp cho việc hiểu và xác định phạm vi nội hàm của hoạt động này được cụ thể và dễ dàng hơn, đảm bảo thống nhất trong áp dụng. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 cũng có quy định riêng đối với biện pháp áp giải trong một điều luật độc lập – Điều 127. Theo đó, áp giải được xác định là một biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được diễn ra theo đúng trình tự, quy định của pháp luật[2].

Nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 thì thấy, đã có sự mở rộng hơn về đối tượng bị áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải so với quy định tại BLTTHS năm 2003. Cụ thể là: biện pháp áp giải không chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp đã được triệu tập nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng[3] mà còn được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, người bị bắt[4].

Về thẩm quyền áp dụng biện pháp áp giải, trong BLTTHS năm 2015 cũng xác định cụ thể, rõ ràng hơn, theo đó, tại Điều 126 quy định: “…cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp áp giải,…” và tại khoản 3 Điều 127 làm rõ hơn quy định về chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp áp giải gồm: “Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải,…”. Việc điều chỉnh mở rộng chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp áp giải là nhằm đảm bảo phù hợp với việc mở rộng chủ thể bị áp dụng biện pháp này như tác giả đã phân tích ở trên.

 Khi ban hành quyết định áp giải đòi hỏi phải đảm bảo có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 127 và khoản 2 Điều 132 BLTTHS năm 2015. Đồng thời, BLTTHS năm 2015 còn quy định bổ sung việc không được áp giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế[5]. Quy định mới này thể hiện rõ hơn chính sách nhân văn của đảng và nhà nước ta, theo đó, cùng với quy định không bắt đầu áp giải vào ban đêm thì việc không áp giải đối với đối tượng là người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ sở y tế là hoàn toàn phù hợp. Bởi đây được coi là những đối tượng yếu thế, được xã hội quan tâm với những chính sách an sinh xã hội, do đó, trong hoạt động tố tụng hình sự, những đối tượng này tất nhiên cũng sẽ được hưởng chính sách ưu tiên của nhà nước.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng quy định về biện pháp áp giải của BLTTHS năm 2015 cũng còn một số vướng mắt nhất định. Cụ thể:

Một là, chưa có sự phân hóa biện pháp áp giải với biện pháp dẫn giải. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ngoài việc bổ sung khái niệm về áp giải tại điểm k khoản 1 Điều 4 thì còn bổ sung khái niệm dẫn giải tại điểm l khoản 1 Điều 4 như sau: ” Dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định”. Như vậy, dẫn giải và áp giải đều là hai biện pháp cưỡng chế có thể được áp dụng trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tuy nhiên, nghiên cứu khái niệm của hai biện pháp này thấy rằng, căn cứ vào thuật ngữ và đối tượng áp dụng có thể thấy, áp giải là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn dẫn giải. Tuy nhiên, trong cả hai điều khoản này khi quy định về khái niệm dẫn giải và áp giải, nhà làm luật đều sử dụng cụm từ “là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế”. Như vậy, rõ ràng là với cách quy định này không đảm bảo sự phân hóa tính “cưỡng chế” – mức độ nghiêm khắc trong việc áp dụng hai biện pháp này và do vậy không đảm bảo sự phù hợp trong phân hóa chính sách hình sự áp dụng đối với các đối tượng khác nhau. Đây là một hạn chế trong kỹ thuật lập pháp cần được khắc phục trong thời gian tới.

 Hai là, một số thuật ngữ mang tính chất định tính khiến cho việc hiểu và áp dụng tùy nghi, thiếu thống nhất. Cụ thể:

+ Tại khoản 3 Điều 60 và khoản 3 Điều 61 quy định trường hợp bị can, bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp bị can, bị cáo không có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của Tòa án mà chứng minh được là có lý do chính đáng hoặc do trở ngại khách quan thì sẽ không bị áp dụng biện pháp áp giải. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định như thế nào được xác định là có lý do chính đánh và do trở ngại khách quan khiến cho thực tiễn áp dụng quy định này trong thực tế còn chưa thống nhất, có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.

+ Tại khoản 6 Điều 127 BLTTHS năm 2015 quy định không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Như đã phân tích ở trên, đây là một quy định mới mang tính nhân văn và tiến bộ. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này còn gặp nhiều vướng mắc, cụ thể: Đối với đối tượng là người già yếu thì hiện nay qua nghiên cứu các văn bản luật có liên quan thì thấy, hiện mới chỉ có khái niệm “người cao tuổi” quy định Điều 2 Luật Người cao tuổi. Tại tiểu mục 2.4 mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì “Người già” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên.Tại điểm a tiểu mục 4.1 Mục 4 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì “Người quá già yếu” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm.  Như vậy, hiện nay thuật ngữ “người già yếu” được sử dụng tại khoản 6 Điều 127 BLTTHS năm 2015 là không đảm bảo sự thống nhất và khó xác định do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong áp dụng pháp luật. Đồng thời, nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về cơ bản đã thay thế thuật ngữ người già yếu bằng thuật ngữ người từ đủ 70 tuổi trở lên. Do đó, quy định tại điều khoản này vẫn giữ nguyên thuật ngữ “người già yếu” là không đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn cho quá trình áp dụng vào thực tiễn.

Đối với đối tượng người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế hiện nay cũng chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng một cách cụ thể. Vì vậy việc áp dụng trong thực tiễn cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc đánh giá, xác định cơ sở y tế nào là cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định một người là bị bệnh nặng và hồ sơ, giấy tờ nào của cơ sở để chứng minh việc một người bị bệnh nặng, là bệnh án của bệnh viện hay giấy xác nhận của bác sỹ điều trị,…

Thứ ba, khoản 1 Điều 419 BLTTHS năm 2015 quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế như sau: “Chỉ áp dụng biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết”. Quy định này là hoàn toàn phù hợp vì đối tượng là người dưới 18 tuổi là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm sinh lý. Tuy nhiên, như thế nào được xác định là trường hợp thật cần thiết thì hiện lại chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể. Đây chính là lý do của việc áp dụng biện pháp áp giải một cách tùy tiện, thiếu thống nhất trong thực tiễn và điều này vô hình trung mang đến những kết quả trái với kỳ vọng của nhà làm luật khi đặt ra quy định này là đảm bảo thực thi chính sách nhân văn của đảng và nhà nước ta đối với đối tượng này.

Trên cơ sở các vướng mắc đề cập nêu trêu, để hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp áp giải, tác giả đề xuất các nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, kiến nghị khi tiến hành sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu bổ sung nội hàm khái niệm áp giải và dẫn giải để đảm bảo tính phân loại và phân hóa mức độ “cưỡng chế” trong hai biện pháp này, đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng tác động. Trên cơ sở đó, khi xây dựng khái niệm của hai biện pháp này phải thể hiện sự khác biệt, theo đó, áp giải là biện pháp cưỡng chế có tính nghiêm khắc hơn biện pháp dẫn giải và các biện pháp khác thuộc nhóm các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự.

Thứ hai, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cần tổng kết công tác áp dụng biện pháp áp giải trong thực tiễn. Từ đó xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn (Thông tư liên tịch) để hướng dẫn một cách cụ thể về các tình tiết còn có nhiều cách hiểu khác nhau trên thực tế. Từ những phân tích nêu tại phần hai bài viết này, tác giả đề xuất văn bản hướng dẫn cần rà soát, tổng hợp để hướng dẫn một cách đầy đủ tất cả các tình tiết mang tính định tính, còn nhiều cách hiểu khác nhau. Trong đó, cần xác định rõ căn cứ cụ thể để xác định thế nào là lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan[6], căn cứ để xác định trường hợp thật cần thiết khi áp dụng biện pháp áp giải đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và căn cứ cụ thể để xác định trường hợp bị bệnh nặng có xác nhận của cơ sở y tế quy định tại khoản 6 Điều 127 BLTTHS năm 2015.

Thứ ba, đối với tình tiết “người già yếu” quy định tại khoản 6 Điều 127 BLTTHS năm 2015, tác giả đề xuất khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015, nhà làm luật cần thay cụm từ này thành cụm từ “người từ đủ 70 tuổi trở lên” để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật hình sự nói chung, đảm bảo về mặt kỹ thuật lập pháp trong một Bộ luật lớn như BLTTHS. Trước mắt, để giải quyết vướng mắc này trong thực tiễn tiến hành các hoạt động tố tụng, khi BLTTHS năm 2015 chưa được sửa đổi, bổ sung, tác giả kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tình tiết này. Tác giả đề xuất nội dung hướng dẫn nên tiếp cận theo hướng sau: do thuật ngữ “người già yếu” bao gồm hai vế là “người già” và “yếu” nên nội dung văn bản hướng dẫn theo hướng “người già yếu” là người từ đủ 70 tuổi trở lên hoặc là người đủ 60 tuổi đến dưới 70 tuổi nhưng thường xuyên đau ốm.

Có thể thấy rằng, việc áp dụng biện pháp áp giải trong thực tiễn là vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm và rất dễ bị phản ứng do đây là biện pháp tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, vì vậy trước khi quyết định áp dụng biện pháp này, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc, xem xét hết sức cẩn trọng trên nguyên tắc chỉ áp dụng biện pháp áp giải trong trường hợp thật cần thiết để làm rõ các nội dung quan trọng của vụ án. Đồng thời, với việc làm rõ các căn cứ, tình tiết khi áp dụng biện pháp áp giải góp phần giúp cho việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn được chính xác, thống nhất và hiệu quả./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2. Bộ luật Dân sự năm 2015.

[1] Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Xem Điều 126 BLTTHS năm 2015.

[3] Xem Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015.

[4] Xem Điều 37, Điều 42 BLTTHS năm 2015.

[5] Xem khoản 6 Điều 127 BLTTHS năm 2015.

[6] Nội dung này có thể tham khảo trong các văn bản hướng dẫn trước đây đối với các điều luật khác và tham khảo quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan trong dân sự.

Nguồn: Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân, số 157, tháng 7/3022