Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về
hoãn chấp hành hình phạt tù
Trần Thị Huyền – Phó Trưởng khoa Tội phạm học và Điều tra tội phạm
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc người bị kết án phạt tù đang tại ngoại được Tòa án có thẩm quyền cho phép tạm dừng một khoảng thời gian đi chấp hành hình phạt tù do có những điều kiện Luật định. Điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định trong Bộ luật Hình sự, Luật thi hành án hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho hoãn chấp hành hình phạt tù đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù còn chưa đầy đủ, cụ thể, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Bài viết này phân tích một số bất cập trong quy định pháp luật hiện hành và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù.
1. Quy định của pháp luật về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù
Theo quy định tại khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS hiện hành), người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây: a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục; b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ.
Thủ tục đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, hồ sơ đề nghị và thủ tục xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 24 Luật Thi hành án hình sự và các Điều 5, 6, 7 Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn, miễn chấp hành hình phạt tù (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch 01/2021).
Nhìn chung, pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho hoãn chấp hành hình phạt tù đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, thực tiễn đã phát sinh những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, không chỉ gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù mà còn có thể ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án và công tác thi hành án hình sự trong một số trường hợp nhất định.
2. Bất cập trong quy định pháp luật về điều kiện, thủ tục xét hoãn chấp hành hình phạt tù
Một là, pháp luật chưa có hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành liên quan đến các yếu tố cần thiết bảo đảm cho việc quản lý đối tượng khi được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Có thể nhận thấy nội dung quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành về điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù không có thay đổi so với quy định tại Điều 61 BLHS năm 1999. Trước đây, quy định tại Điều 61 BLHS năm 1999 đã được hướng dẫn tại Mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt (sau đây viết tắt là Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP). Trong đó, trước nội dung hướng dẫn về từng điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù, Mục 7 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP nêu rõ những yếu tố cần phải được xem xét khi quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với từng trường hợp cụ thể. Đó là: “Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù…”[1].
Có ý kiến cho rằng: Nội dung hướng dẫn tại Mục 7 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP như trên là không phù hợp với quy định của BLHS vì đã quy định thêm những điều kiện khác ngoài những điều kiện được quy định trong BLHS. Tác giả không đồng tình với ý kiến này bởi những lý do sau đây: Căn cứ theo quy định tại Điều 61 BLHS năm 1999 (tương ứng với quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành) thì người bị xử phạt tù nếu có điều kiện Luật định thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù, chứ không phải là đương nhiên được cho hoãn chấp hành hình phạt tù. Hơn nữa, những nội dung nêu trên tại Mục 7 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP về các yếu tố cần thiết phải xem xét khi quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù là một phần nội dung hướng dẫn nhằm áp dụng thống nhất pháp luật; đồng thời những nội dung hướng dẫn này không trái với quy định của BLHS về các điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù. Vì vậy, tác giả cho rằng: Nội dung hướng dẫn tại Mục 7 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP không trái với quy định của BLHS về điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù; đồng thời là căn cứ để Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật khi xem xét, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với từng trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP đã hết hiệu lực pháp luật[2], trong khi đó hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành liên quan đến các yếu tố cần thiết phải xem xét khi quyết định hoãn chấp hành án phạt tù để đảm bảo việc quản lý đối tượng được hoãn chấp hành hình phạt tù như: Người đó có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng không? Sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng không? Có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn khi được hoãn chấp hành hình phạt tù không? Điều này không chỉ dẫn đến việc Tòa án không thống nhất trong việc cân nhắc, xem xét đến các yếu tố cần thiết trên khi quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với các trường hợp cụ thể, mà còn ảnh hưởng nhất định đến công tác quản lý, thực hiện các thủ tục thi hành án hình sự tại cộng đồng liên quan đến các đối tượng được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Hai là, pháp luật hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về các điều kiện hoãn chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành, đặc biệt là hướng dẫn về căn cứ xác định tình trạng bệnh của người bị xử phạt tù thuộc trường hợp “bị bệnh nặng” và quy định về trách nhiệm của cơ sở y tế, tổ chức giám định, người giám định trong việc xác định tình trạng bệnh của người bị kết án có đến mức nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng.
Thực tiễn ở không ít địa phương cho thấy, việc áp dụng quy định về điều kiện “bị bệnh nặng”, “nuôi con dưới 36 tháng tuổi”, “vì lý do công vụ” có lúc, có nơi còn thiếu thống nhất, còn nhiều ý kiến khác nhau của các cơ quan có thẩm quyền về điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù[3], đặc biệt là đối với các trường hợp người bị xử phạt tù “bị bệnh nặng”.
Như đã đề cập, khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2021 có một số nội dung quy định liên quan đến điều kiện hoãn chấp hành hình phạt đối với trường hợp người bị “bệnh nặng”. Theo đó, điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch này quy định rõ: “d) Đối với người bị kết án phạt tù bị bệnh nặng tới mức không thể chấp hành hình phạt tù và nếu phải chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ phải có kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản sao bệnh án, kết luận của bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên hoặc có kết luận của tổ chức pháp y công lập về tình trạng bệnh tật của người bị kết án phạt tù. Người bị bệnh nặng là người mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên hoặc mắc bệnh khác dẫn đến không có khả năng tự phục vụ bản thân, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao. đ) Đối với người bị kết án phạt tù bị nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV thì phải có kết quả xét nghiệm bị nhiễm HIV theo quy định của Bộ Y tế và bản sao bệnh án hoặc kết luận của cơ quan y tế có thẩm quyền khẳng định đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV, đang có nhiễm trùng cơ hội và tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao”.
Tuy nhiên, ngoài các loại bệnh, mức độ bệnh được nêu trong điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2021 (bao gồm: Ung thư giai đoạn cuối, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên; nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV), pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về các loại bệnh khác hoặc tiêu chí cụ thể để xác định người bị bệnh gì, đến mức nào thì được coi là bệnh nặng không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ. Điều này dễ dẫn đến việc tùy tiện trong việc xét hoãn chấp hành hình phạt tù vì lý do “bệnh nặng”, đồng thời còn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án phạt tù bị bệnh nặng. Bởi lẽ, y học đã chứng minh con người có thể mắc nhiều căn bệnh khác nhau, với nhiều mức độ khác nhau; sự ảnh hưởng của các căn bệnh đến sức khỏe của mỗi người là khác nhau.
Tại khoản 2 Điều 7 của Thông tư liên tịch 01/2021 quy định về thủ tục xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo đó, Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổ chức xem xét, thẩm tra đơn, văn bản đề nghị, tài liệu kèm theo và giải quyết đối với từng trường hợp cụ thể như sau: “a) Trường hợp đơn, văn bản đề nghị và tài liệu kèm theo đã đầy đủ theo quy định tại Điều 6 của Thông tư liên tịch này thì xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù; b) Trường hợp đơn, văn bản đề nghị và tài liệu chưa đầy đủ theo quy định tại Điều 6 của Thông tư liên tịch này thì thông báo bổ sung đơn, văn bản đề nghị và các tài liệu kèm theo. Trường hợp này, thời hạn Chánh án phải xem xét quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật Thi hành án hình sự được tính kể từ ngày nhận được bổ sung đơn, văn bản, tài liệu kèm theo; c) Trường hợp hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù đã đầy đủ nhưng nếu thấy còn nội dung vướng mắc, chưa rõ thì Chánh án Tòa án phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp để trao đổi, thống nhất trước khi ban hành quyết định.…”.
Thực tiễn ở nhiều địa phương cho thấy không ít trường hợp Tòa án có thẩm quyền đã yêu cầu cơ sở y tế, tổ chức giám định, người giám định xác định tình trạng bệnh của người đó có đến mức nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng hay không khi xét hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị xử phạt tù xin hoãn chấp hành hình phạt nhưng không mắc các loại bệnh, mức độ bệnh đã được pháp luật quy định hoặc có nghi ngờ về tình trạng sức khỏe của đối tượng xin hoãn. Tuy nhiên, do pháp luật hiện còn thiếu quy định về trách nhiệm của cơ sở y tế, tổ chức giám định, người giám định trong việc xác định tình trạng bệnh của người bị kết án có đến mức nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng hay không dẫn đến khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức có liên quan khi giải quyết các tình huống sau: Đối tượng xét hoãn không bị mắc các bệnh cụ thể theo loại và mức độ được quy định tại điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2021[4] nhưng vẫn có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh về việc người đó bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của người đó. Hoặc, trường hợp đối tượng nộp đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù kèm theo hồ sơ bệnh án có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh về việc đang mắc chứng “rối loạn lo âu”, “rối loạn trầm cảm”, “có nguy cơ tự sát”. Để làm rõ việc các đối tượng này có đủ điều kiện “bị bệnh nặng” khi xét hoãn chấp hành hình phạt tù, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu tổ chức pháp y công lập về tình trạng bệnh của đối tượng có nặng hay không; nếu đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng hay không. Tuy nhiên, tổ chức giám định pháp y được trưng cầu không trả lời Tòa án có thẩm quyền về việc nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng của người đó hay không, với lý do là: Theo Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần chỉ quy định tổn thương cơ thể do bệnh, tật là bao nhiêu phần trăm, không quy định về vấn đề khẳng định với tử lệ tổn thương cơ thể do bệnh theo Kết luận giám định, người bị kết án có bệnh nặng hay không; nếu đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng hay không[5].
Có thể nói, việc thiếu hướng dẫn cụ thể về các điều kiện hoãn chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành và quy định về trách nhiệm của cơ sở y tế, tổ chức giám định, người giám định trong việc xác định tình trạng bệnh của người bị kết án có đến mức nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng như đã nêu trên không chỉ gây khó khăn cho Tòa án trong việc xem xét, quyết định cho hoãn chấp hành hình phạt tù mà còn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến quyền của người bị xử phạt tù bị bệnh nặng nhưng không được cho hoãn chấp hành án. Bên cạnh đó, điều này còn ảnh hưởng nhất định đến công tác thi hành án phạt tù, đặc biệt trong công tác tiếp nhận, quản lý, thực hiện chế độ đối với những phạm nhân là đối tượng bị kết án phạt tù bị bệnh nặng nhưng không được cho hoãn chấp hành án. Bởi, các đối tượng thuộc trường hợp này khi chấp hành hình phạt tù thường phát sinh vấn đề về sức khỏe do bệnh mắc trước đó không được điều trị dứt điểm, thường xuyên tái phát, dẫn đến trách nhiệm của cơ sở giam giữ phạm nhân trong việc thực hiện thủ tục trích xuất phạm nhân đi khám, chữa bệnh, thực hiện chế độ đối với phạm nhân…; đồng thời còn ảnh hưởng đến khoản ngân sách của nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện chế độ khám bệnh, chữa bệnh đối với phạm nhân; ngoài ra còn phát sinh thêm thủ tục và trách nhiệm của các cơ quan trong việc đề nghị, xem xét, quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với những phạm nhân này.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Từ những phân tích trên, tác giả xin đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, tạo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù. Cụ thể như sau:
Một là, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành theo hướng:
– Quy định rõ việc xét hoãn chấp hành hình phạt tù cần xem xét các yếu tố cần thiết. Đó là: “Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn được hoãn chấp hành hình phạt tù khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:….”.
– Hướng dẫn cụ thể về các điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 67 BLHS hiện hành, bao gồm: “Bị bệnh nặng” (loại bệnh, mức độ, tiêu chí xác định bệnh nặng”; “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi” (con đẻ hay con nuôi, căn cứ xác định giới tính của người bị kết án); “Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt” (nguồn thu nhập của gia đình; khả năng, điều kiện chăm nom, nuôi dưỡng đối với những người mà người bị kết án có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng… ); “Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ” (mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm mà người đó đã bị kết án; khả năng, điều kiện đáp ứng nhu cầu công vụ của người bị kết án…).
Hai là, liên ngành tư pháp trung ương trong lĩnh vực tư pháp và y tế cần sớm ban hành văn bản liên tịch về quan hệ phối hợp giữa các về cơ quan có thẩm quyền trong việc thi hành quy định pháp luật về thi hành án hình sự. Trong đó, văn bản cần quy định rõ trách nhiệm của cơ sở y tế, tổ chức giám định, người giám định trong việc xác định tình trạng bệnh của người bị kết án có đến mức nếu đưa đi chấp hành án có nguy hiểm đến tính mạng.
Tác giả cho rằng việc kịp thời ban hành Nghị quyết, văn bản liên tịch trên không chỉ đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng quy định về điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù mà còn góp phần đảm bảo hiệu quả công tác thi hành án hình sự trên thực tế.
Những nội dung trong bài viết thể hiện quan điểm của cá nhân tác giả về một số vấn đề liên quan đến điều kiện, thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định pháp luật hiện hành. Rất mong nhận được những ý kiến trao đổi từ đồng nghiệp và độc giả để nâng cao nhận thức về vấn đề này./.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Y tế (2019), Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần;
2. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTPngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt;
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự (Luật số 15/1999/QH10),
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Hình sự (Luật số 100/2015/QH13),
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Luật số 12/2017/QH14)),
6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Thi hành án hình sự (Luật số 41/2019/QH14);
7. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2022), Thông báo số 14/TB-VKSTC ngày 14/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về Một số vi phạm của Tòa án nhân dân các cấp trong tạm giam và thi hành án hình sự;
8. Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng (2021), Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn, miễn chấp hành hình phạt tù;
9. Tòa án nhân dân tối cao (2021), Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 của Tòa án nhân dân tối cao Quyết định về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân tối cao;
10. Tài liệu thực tế về công tác thi hành án hình sự, 2021-2022.
[1] Xem Mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt;
[2] Xem Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 của Tòa án nhân dân tối cao Quyết định về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân tối cao;
[3] Theo nội dung tại Mục 4 Phần I Thông báo số 14/TB-VKSTC ngày 14/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về Một số vi phạm của Tòa án nhân dân các cấp trong tạm giam và thi hành án hình sự thì: Trong thời gian từ 01/12/2020 đến 30/9/2021, Tòa án nhân dân các cấp đã ban hành 63 quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù không đúng quy định của pháp luật, vi phạm Điều 67 Bộ luật hình sự, trong đó các dạng vi phạm là: Đối tượng hoãn không thuộc trường hợp bị bệnh nặng, hoãn với lý do lao động duy nhất không đúng; hoãn vì lý do công vụ không đúng…
[4] Mục 7 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại Điều 61 BLHS năm 1999 cũng quy định một số loại bệnh tương tự;
[5] Kết quả tổng hợp từ nguồn tài liệu thực tế về công tác thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân một số địa phương trong thời gian từ năm 2021 đến 2022;