Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017

Nguyễn Thị Hoài Thương – Chuyên viên – Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt lần đầu tiên được thừa nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 với 01 Chương (Chương XVI) và 08 điều (từ điều 223 đền điều 228). Đây là chế định hoàn toàn mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Trên cơ sở phân tích các quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS năm 2015, bài viết chỉ ra một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng những quy định này trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện chế định này.

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định tại Chương XVI BLTTHS năm 2015 với 08 điều, từ Điều 223 đến Điều 228, thể hiện việc cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”, tức là bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Mặt khác, do yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là các Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Tội phạm về ma túy, Tội phạm tham nhũng, Tội khủng bố, Tội rửa tiền… với phương thức thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội và che giấu tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt các đối tượng phạm tội sử dụng nhiều công cụ, phương tiện công nghệ cao, do đó nếu Cơ quan điều tra chỉ áp dụng các biện pháp điều tra công khai như BLTTHS năm 2003 quy định thì trong nhiều trường hợp việc phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ gặp nhiều khó khăn hoặc các tài liệu thu thập được từ các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan điều tra lại không được công nhận là chứng cứ mặc dù các tài liệu, đồ vật phát hiện và thu thập được có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội cao. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có quy định để tạo điều kiện cho hoạt động điều tra sử dụng các biện pháp đặc biệt và phải được pháp luật thừa nhận, bảo đảm an toàn hơn cho hoạt động điều tra của cơ quan điều tra nhằm tháo gỡ những bất cập trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chủ yếu là bí mật trong việc phát hiện thu thập chứng cứ. Theo đó, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng kết hợp nhiều biện pháp điều tra, để thu thập chứng cứ một cách có hiệu quả nhất, phục vụ tốt nhất cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền tự do, bình đẳng của con người, quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự mà Hiến pháp 2013 đã quy định. Đồng thời, quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS năm 2015 còn phù hợp với các công ước của Liên Hợp quốc mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập như: Công ước về chống tham nhũng, Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… điều này bảo đảm sự tương thích giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

BLTTHS năm 2015 đã quy định về nội dung, trường hợp, hình thức, phạm vi, thẩm quyền, thời hạn áp dụng, sử dụng tài liệu, chứng cứ thu thập được để ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm dụng, không để lợi dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt xâm phạm đến đời tư của công dân, xâm phạm đến quyền con người, cụ thể:

Thứ nhất, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những biện pháp này cho phép ghi nhận hình ảnh với độ phân giải cao, âm thanh chất lượng và những thông tin, tài liệu khác, đồng thời đảm bảo yếu tố bí mật với đối tượng áp dụng và những người không liên quan.

Thứ hai, các trường hợp áp ụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được áp dụng đối với các trường hợp: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, Tội phạm về ma túy, Tội phạm về tham nhũng, Tội khủng bố, Tội rửa tiền; các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là những loại tội phạm có tổ chức chặt chẽ, phương thức, thủ đoạn phạm tội và che dấu tội phạm tinh vi, xảo quyệt, đối tượng phạm tội thường ngoan cố, chống đối đến cùng, thiếu hợp tác với Cơ quan tố tụng dẫn tới các biện pháp điều tra tố tụng thông thường không mang lại hiệu quả hay hiệu quả thấp. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép Cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh tội phạm, qua đó xác định nhanh chóng, chính xác, toàn diện vụ án, chứng minh tội phạm và người phạm tội, truy nguyên tài sản mà người thực hiện phạm tội đã chiếm đoạt hoặc làm thất thoát.

Thứ ba, thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Biện pháp điều tra Tố tụng đặc biệt liên quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân nên không thể áp dụng tràn lan do vậy Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp dụng, tên biện pháp được áp dụng, thời hạn, địa điểm áp dụng, Cơ quan thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung khác của văn bản tố tụng.

 Để đảm bảo thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Công an nhân dân, Quân đội nhân dân cần thành lập Cơ quan chuyên trách tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Cơ quan chuyên trách cần được biên chế cán bộ kỹ thuật để đảm bảo về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại đã được kiểm duyệt để ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại bí mật, thu thập dữ liệu điện tử bí mật. Những người có thẩm quyền quyết định và thi hành quyết định bao gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan Điều tra cấp quân khu trở lên ra quyết định và Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, những người trong Cơ quan chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật. Nếu để lộ những thông tin về việc tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biết tới đối tượng bị áp dụng trong vụ án sẽ khiến đối tượng cảnh giác, tìm cách đối phó, tạo ra những thông tin sai nhằm đánh lạc hướng Cơ quan tố tụng.

Thứ tư, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là khoảng thời gian tối đa mà pháp luật cho phép để tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ áp dụng ở giai đoạn điều tra và sau khi khởi tố vụ án nên trong trường hợp vụ án phức tạp đòi hỏi cần thời gian để tiếp tục thu thập tài liệu, chứng cư thì có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra. Chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.

Thứ năm, sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Thông tin, tài liệu thu thập được từ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt liên quan tới bí mật đời tư của cá nhân nên cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan thi hành quyết định phải phân tích, đánh giá, chọn lọc những thông tin, tài liệu có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội, truy tìm đồng phạm, ngăn chặn đối tượng bỏ trốn, truy nguyên tài sản người phạm tội chiếm đoạt… và sử dụng làm chứng cứ phục vụ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời; nghiêm cấm việc sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác. Mặt khác, thông tin, tài liệu thu thập được bằng việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể dùng làm chứng cứ. Đây là nguồn chứng cứ hết sức quan trọng có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm và được sử dụng để giải quyết vụ án. Để bảo đảm và phát huy vai trò kiểm sát các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt và có cơ sở đánh giá chính xác biện pháp điều tra tố tụng trong giải quyết vụ án có còn cần thiết phải áp dụng tiếp tục hay không. BLTTHS đã quy định Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn.

Thứ sáu, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Trong trường hợp khi không cần thiết phải tiếp tục áp dụng hay có vi phạm trong việc thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt hoặc khi có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hủy bỏ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đối với những vụ án mà Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khi muốn hủy bỏ phải có văn bản đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan Điều tra quân sự cấp quân khu để Cơ quan Điều tra cấp tỉnh, Cơ quan Điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hủy bỏ.

Từ thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS năm 2015 trong những năm vừa qua cho thấy có một số khó khăn, vướng mắc khi thi hành, cụ thể:

Một là, tại Khoản 1 Điều 225 BLTTHS 2015 quy định “Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt”. Như vậy, điều luật chỉ đề cập tới Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu mà chưa đề cập tới Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương trong việc yêu cầu Cơ quan điều tra cùng cấp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, trong khi đó, tại Khoản 3 Điều 225 quy định: “Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”, điều này thể hiện sự chưa thống nhất trong quy định của BLTTHS năm 2015.

Hai là, BLTTHS năm 2015 quy định quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 lại không quy định thời hạn mà Cơ quan điều tra phải gửi quyết định áp dụng sang Viện kiểm sát và thời hạn mà Viện kiểm sát phải phê chuẩn kể từ khi nhận được quyết định áp dụng. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 cũng chưa quy định trong thời hạn bao lâu kể từ khi có yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Ba là, trong trường hợp các thông tin, tài liệu được thu thập từ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được sử dụng làm chứng cứ thì thuộc nhóm nguồn chứng cứ nào theo quy định của BLTTHS năm 2015. Đối với biện pháp thu thập bí mật dữ liệu điện tử, thì tài liệu, thông tin thu thập được có thể được xếp vào nhóm nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Nhưng với các biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật thì tài liệu, thông tin được thu thập là các tệp hình ảnh, âm thanh thì được xếp vào loại nguồn chứng cứ nào thì cũng chưa quy định cụ thể. Bởi lẽ, nếu xếp các loại thông tin đó vào dữ liệu điện tử thì không phù hợp với sự phân loại về biện pháp thu thập khi các nhà làm luật đã quy định thu thập bí mật dữ liệu điện tử là một hoạt động riêng biệt với các hoạt động khác. Mặt khác, nếu xếp vào nhóm tài liệu, đồ vật khác thì không phù hợp với quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2015 về những tình tiết liên quan đến vụ án ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ.

Bốn là, khi áp dụng biện pháp điều tra Tố tụng đặc biệt có thể thu thập được thông tin, tài liệu liên quan đến một vụ án khác hoặc thông tin có dấu hiệu của tội phạm khác nhưng lại không liên quan tới vụ án đang được áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Nhưng theo quy định thì thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án đó; thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án đó phải tiêu hủy kịp thời. Do vậy, nếu phải tiêu hủy mà không được sử dụng có thể bỏ lọt tội phạm, lãng phí thông tin và đi ngược lại với nguyên tắc “Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh kịp thời”.

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện như sau:

Một là, cần điều chỉnh khoản 1 Điều 225 BLTTHS năm 2015 cụm từ “theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu” thành “theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp”.

Hai là, quy định cụ thể về thời hạn mà Cơ quan điều tra phải gửi quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt sang Viện kiểm sát cùng cấp, thời hạn Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp này của Cơ quan điều tra, cũng như thời hạn Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp quân khu trở lên phải ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.

Ba là, cần bổ sung một quy định, theo đó phân loại các tài liệu, thông tin được thu thập được từ các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt cho phù hợp với loại chứng cứ đươc quy định trong luật, cụ thể: Ghi nhận các thông tin, tài liệu thu thập được từ các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt đều thuộc về nguồn dữ liệu điện tử. Bởi lẽ, suy cho cùng, việc ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại, và thu thập dữ liệu điện tử đều dẫn đến các phương tiện thể hiện là các dữ liệu điện tử như tệp âm thanh, tệp hình ảnh.

Bốn là, cần có quy định cụ thể trong việc sử dụng thông tin, tài liệu nếu liên quan tới vụ án khác, có dấu hiệu tội phạm khác được thu thập trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt./.