Một số lưu ý khi kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án trong thi hành án dân sự và thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị khi phát hiện vi phạm trong hoạt động này
Ths Nguyễn Thị Phượng, Ths Lê Thị Duyên
Giảng viên Khoa Kiểm sát Dân sự
Tóm tắt: Công tác kiểm sát thi hành dân sự nói chung, trong đó hoạt động kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án của Viện kiểm sát có vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động THADS được thực hiện đúng quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, đảm bảo các quyết định, bản án của Tòa án được thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Khi kiểm sát thi hành án dân sự, Viện kiểm sát có nhiệm vu, quyền hạn xem xét hành vi, quyết định liên quan đến thi hành án. Kiến nghị những vi phạm ít nghiêm trọng của Tòa án, Cơ quan thi hành án, yêu cầu khắc phục vi phạm và xử lý người vi phạm; kiến nghị cơ quan tổ chức có liên quan khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp phòng ngừa; Kháng nghị hành vi của thủ trưởng, chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành án dân sự.
Từ khóa: Thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; thi hành án dân sự
- Một số lưu ý khi kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án trong thi hành án dân sự
Để công tác xác minh điều kiện thi hành án đúng quy định của pháp luật, trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát thi hành án dân sự, Kiểm sát viên cần lưu ý một số vấn đề cơ bản sau:
1.1. Nắm chắc các quy định của pháp luật để kịp thời phát hiện vi phạm của Chấp hành viên trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
Để thực hiện tốt nhiệm kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự, kiểm sát viên cần nắm chắc các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và thời hạn thực hiện hoạt động xác minh điều kiện thi hành án.
Quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính và các quy định khác có liên quan trong việc kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự[1].
Muốn kịp thời phát hiện vi phạm trong thi hành án dân sự nói chung hoạt động xác minh điều kiện thi hành án nói riêng. Kiểm sát viên cần nắm giữ các nguồn thông tin, hồ sơ tài liệu chứa đựng hoạt động tác nghiệp của Chấp hành viên trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án dân sự, ví dụ như:
Qua nghiên cứu hồ sơ thi hành án: Hồ sơ nghiệp vụ thi hành án phải thể hiện được toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án của chấp hành viên. Trong đó, chấp hành viên phải ghi chép các công việc, lưu giữ tất cả các tài liệu đã và đang thực hiện vào hồ sơ nghiệp vụ thi hành án gồm: Bản án, quyết định; quyết định thi hành án; các biên bản bàn giao, xử lý vật chứng, tài sản đó kê biên, tạm giữ, biên bản xác minh, biên bản giải quyết việc thi hành án (có đầy đủ chữ ký của đương sự trong các trong biên bản)… Phát hiện vi phạm từ việc nghiên cứu hồ sơ thi hành án chủ yếu được thực hiện thông qua công tác trực tiếp kiểm sát thi hành án dân sự hoặc từ việc nghiên cứu hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Đây là trường hợp kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, tài liệu về thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án toàn diện và đầy đủ nhất, thuận lợi nhất.
Qua kiểm sát hồ sơ thi hành án, hồ sơ bán đấu giá tài sản, tài liệu do đương sự cung cấp; tài liệu do Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cung cấp; hoặc đối chiếu với tài liệu sẵn có của VKSND.
Qua đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự hoặc kiểm sát hồ sơ kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự…
Nắm thông tin qua các hoạt động nghiệp vụ của VKSND, các cơ quan hữu quan, nguồn tin do nhân dân cung cấp, do Báo, Đài hoặc do Viện kiểm sát cấp trên chuyển đến Viện kiểm sát hoặc vi phạm cụ thể của chấp hành viên trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án;
1.2. Nhận diện các dạng vi phạm thường gặp khi kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự.
Thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát thi hành án dân sự cho thấy, những vi phạm chủ yếu trong hoạt động này cụ thể như sau:
Một là, vi phạm về thời hạn tự nguyện trong xác minh điều kiện thi hành án.
Theo quy định tại Điều 44 Luật THADS, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA không tự nguyện thi hành thì CHV phải tiến hành xác minh, thời hạn tự nguyện được tính từ thời điểm người phải thi hành án nhận được thông báo hợp lệ là Quyết định thi hành án, tuy nhiên, qua kiểm sát nhiều trường hợp hết thời gian tự nguyện CHV cũng không tổ chức tiến hành xác minh. Một số trường hợp khác lại xác minh sớm hơn thời hạn theo quy định của pháp luật. Khi mà chưa hết thời hạn 10 ngày kể từ thời điểm người phải thi hành án nhận được Quyết định thi hành án, CHV đã lợi dụng thời điểm giao quyết định mà tiến hành xác minh luôn, không để họ thực hiện thời gian tự nguyện thi hành án của mình.
Hai là, vi phạm về hoạt động xác minh định kỳ với những trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, không tiến hành xác minh khi có thông tin về thi hành án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 LTHADS thì trong trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA thì ít nhất 06 tháng một lần, CHV phải xác minh điều kiện THA nhưng thực tế nhiều trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA nhưng quá 06 tháng, có trường hợp một vài năm CHV không tiến hành xác minh. Trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải THA thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần.
Khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA, CHV phải tiến hành xác minh. Qua kiểm sát phát hiện nhiều việc THA khi có thông tin về THA nhưng CHV không tiến hành xác minh.
Ba là, vi phạm về việc không thông báo kết quả xác minh cho người được thi hành án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật THADS Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện THA thì cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác minh. Tuy nhiên, trên thực tế, CQTHADS thường bỏ qua việc thông báo này dẫn đến người được thi hành án không nắm được kết quả của quá trình thi hành án, không có hướng chủ động tự xác minh hoặc ủy quyền xác minh cho người khác.
Bốn là, vi phạm về thủ tục ủy quyền xác minh.
Văn bản ủy quyền xác minh sơ sài, không đôn đốc khi có ủy quyền xác minh: Nhiều việc CHV ủy quyền cho cơ quan THADS nơi người phải THA có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện THA, song văn bản uỷ quyền sơ sài, không nêu rõ những vấn đề cần xác minh nên kết quả xác minh không đầy đủ, thiếu khách quan.
Năm là, vi phạm về việc đôn đốc yêu cầu xác minh.
Chấp hành viên không đôn đốc khi có yêu cầu xác minh đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã ủy quyền là 30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp việc xác minh tài sản khó khăn, phức tạp thì thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã ủy quyền là 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Sáu là, vi phạm về việc không xác minh ở cơ quan chức năng đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Chấp hành viên khi xác minh điều kiện THA thì việc xác minh không cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để THA; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì không xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó. Nhiều trường hợp tài sản THA là vật đặc dụng nhưng CHV không yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh. Việc xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thì tùy từng trường hợp cụ thể mà CHV căn cứ vào một trong các giấy tờ: Hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng cho, giấy chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản hoặc thông qua chủ sở hữu, chính quyền địa phương, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng hoặc người làm chứng như xác nhận của người bán, của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng về việc mua bán tài sản.
Bảy là, vi phạm về mặt hình thức lẫn nội dung của biên bản xác minh.
Biên bản xác minh ghi không đầy đủ: Khi xác minh người phải THA là cơ quan, tổ chức, CHV không trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải THA; Biên bản xác minh không có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh. Các biên bản xác minh điều kiện THA do các CHV lập (tại Cục THADS tỉnh và Chi cục THADS huyện) đều không xác minh sơ bộ giá trị tài sản trước khi tiến hành thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản nhằm đảm bảo kê biên giá trị tài sản tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành.
Vi phạm của CHV trong xác minh điều kiện THA thường thể hiện: Xác minh không rõ hiện trạng tài sản của người phải THA hoặc xác minh về tài sản chung, tài sản đang có tranh chấp không chi tiết, không rõ ràng làm cho quá trình tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản gặp không ít khó khăn. Một số việc THA, mặc dù CHV đã tiến hành các tác nghiệp cần thiết và đúng hướng nhằm tổ chức thi hành án kịp thời, đúng pháp luật song việc thông báo, xác minh về THA thực hiện chưa đầy đủ khiến việc thi hành án bị kéo dài hoặc bị đương sự khiếu nại, tố cáo.
Tiếp nhận thông tin không đầy đủ nhưng không phát hiện: Nhiều thông tin do cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp – hộ tịch, địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan cung cấp nội dung không đầy đủ, thiếu trung thực nhưng CHV không phát hiện để yêu cầu cung cấp bổ sung; bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA khi nhận được văn bản yêu cầu của CHV, đối với thông tin về tài khoản thì không cung cấp kịp thời (thời hạn quy định trả lời là 03 ngày làm việc). Từ chối cung cấp thông tin nhưng không có văn bản trả lời cho cơ quan Thi hành án dân sự: Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA không cung cấp thông tin kịp thời khi người được THA hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được THA có yêu cầu (thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu) trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp nhưng không có văn bản trả lời và nêu rõ lý do cho cơ quan THADS.
Tám là, vi phạm trong việc khi ghi nhận thông tin kê khai tài sản của người phải thi hành án.
Chấp hành viên thiếu trách nhiệm khi ghi nhận thông tin kê khai tài sản của người phải thi hành án. Không phát hiện việc người phải thi hành án kê khai thiếu trung thực: Khi tiến hành xác minh người phải THA không kê khai trung thực, không cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA; không nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ THA nhưng CHV không phát hiện.
Chín là, vi phạm khi không xác minh khi người được thi hành án chết.
Đối với trường hợp đình chỉ THA do người được THA chết mà không có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được THA. Kết quả xác minh thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương để người có quyền, nghĩa vụ liên quan biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo công khai hợp lệ mà không có người khiếu nại thì được coi là có căn cứ đình chỉ THA.[2]
- Một số kinh nghiệm xây dựng kháng nghị, kiến nghị khi phát hiện vi phạm trong quá trình kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án
Kiến nghị, kháng nghị là quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này nhằm phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự nói riêng. Yêu cầu cơ quan THADS, CHV khắc phục vi phạm bảo đảm cho hoạt động tư pháp được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của các tổ chức và công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Theo quy định tại Điều 5, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, có thể hiểu rằng:
Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan thi hành án dân sự, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án dân sự có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan thi hành án dân sự, cá nhân trong hoạt động tư pháp và các cơ quan tổ chức khác có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
Qua thực tế kiểm sát hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự, đối với những vi phạm thường gặp như: Vi phạm về thời hạn xác minh, không tiến hành xác minh theo định kỳ, không đôn đốc các cơ quan hữu quan trong quá trình xác minh, không thực hiện thông báo kết quả xác minh đến người được thi hành án, biên bản xác minh sai mẫu, hình thức biên bản chưa tuân thủ quy định của pháp luật… là những lỗi thường gặp nhưng được xác định là trường hợp vi phạm ít nghiêm trọng, đối với các vi phạm này của cơ quan THADS, Viện kiểm sát sẽ ban hành kiến nghị, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án sau này.
Đối với vi phạm trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án như: xác minh còn sơ sài, bỏ sót tài sản của người phải thi hành án, không xác minh trong trường hợp người phải thi hành án chết… dẫn đến việc ban hành quyết định về việc “Chưa có điều kiện thi hành án” trái pháp luật, vi phạm Điều 44a Luật Thi hành án dân sự được xác định là những vi phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền ban hành kháng nghị hủy Quyết định về việc “chưa có điều kiện thi hành án” yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thay thế bằng một quyết định thi hành án khác hoặc yêu cầu ban hành quyết định tiếp tục thi hành án, điển hình như sau:
Vụ thứ nhất: Quyết định THADS số 54/QĐ-CCTHADS ngày 26/10/2022 của Chi Cục THADS thành phố TN thi hành Quyết định số 85/2022/QĐST-DS ngày 14/09/2022 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN. Buộc Bà Mai Lệ Q có trách nhiệm trả cho Bà Bà Trần Ngọc H số tiền là 840.000.000 (Tám trăm bốn mươi triệu đồng).
Hồ sơ thể hiện Bà Mai Thị Lệ Q và ông Võ Anh T (Chồng) có 04 tài sản là Quyền sử dụng đất, trong đó có 03 bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lưu trữ trong hồ sơ và 01 thông tin về Quyền sử dụng đất được người được thi hành án cung cấp.
Thửa đất nông nghiệp số (507, 529, 530, 531) có diện tích 6050m2 do ông Võ Anh T đứng tên.
Thửa đất 304 diện tích 1000m2 do ông Võ Anh Tuấn và bà Mai Thị Lệ Q đứng tên.
Thửa đất số 31 tờ bản đồ 54 diện tích 6340 m2 do bà Mai Thị Lệ Q đứng tên.
Thửa đất số 215 tờ bản đồ 13, diện tích 174m2 do người được thi hành án cung cấp thông tin.
Quá trình xác minh, CHV mới xác minh 2 thửa đất số 304 và 215, bỏ sót việc xác minh các thửa đất nông nghiệp số (507, 529, 530, 531) do ông Võ Anh T đứng tên và thửa đất số 31 tờ bản đồ 54 diện tích 6340 m2 do bà Mai Thị Lệ Q đứng tên.
Việc chưa xác minh hết tài sản của người phải thi hành án mà đã ra quyết định án chưa có điều kiện thi hành là trái với quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trần Thị Ngọc H. Ngày 19/08/2024, VKSND Tối cao đã ra quyết định số 01/QĐ – VKSTC kháng nghị hủy Quyết định “chưa có điều kiện thi hành án” số 147/QĐ-CCTHADS ngày 26/04/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN. Yêu cầu ra quyết định tiếp tục thi hành án để xác minh đầy đủ 04 thửa đất của gia đình bà Mai Thị Lệ Q.
Vụ thứ hai: Để thi hành phần nghĩa vụ của đương sự trong Bản án số 179/2022/QĐGDT-DS ngày 27/06/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án Sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 02/03/2020 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN. Chi Cục THADS thành phố TN đã ra Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 285/QĐ-CCTHADS ngày 01/8/2022 cho thi hành đối với nội dung: Buộc Ông Phạm Văn T và Bà Ngô Thị Phương T có trách nhiệm liên đới trả cho Bà Nguyễn Thị Mộng H số tiền là 1.688.007.000 (Một tỷ sáu trăm tám mươi tám triệu không trăm lẻ bảy nghìn đồng)….
Sau khi ra quyết định thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thành phố TN đã tiến hành xác minh tài sản của ông Phạm Văn T và Bà Ngô Thị Phương T, kết quả cho thấy: Bà T có một ô tô mang nhãn hiệu MAZDA, mang biển số 70A – 113.13 đã chuyển nhượng cho ông Phạm Phi V vào tháng 11-2021.
Ông Phạm Văn T có nhà đất tại số 22, đường Nguyễn Văn Cừ, khu phố 3, Phường 2, thành phố TN, tỉnh TN đã làm hợp đồng tặng cho ông Phạm Phi V. Văn bản phân chia tài sản thừa kế được UBND Phường 2, thành phố TN, tỉnh TN chứng thực ngày 30/06/2021. Ông Phạm Phi V đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Ngọc T và bà Nguyễn Thị Minh H vào tháng 7/2021.
Sau quá trình xác minh cua cơ quan THADS, xét thấy người phải thi hành án không có đăng ký quyền sử dụng đất tại nơi cư trú. Bà T đi làm ăn xa, không biết đi đâu, làm gì, tại địa phương không có tài sản nào để thi hành án nên 15/09/2023 CQTHADS đã ra quyết định án không có điều kiện thi hành.
Xét thấy những giao dịch mà ông Phạm Văn T và Bà Ngô Thị Phương T thực hiện ngay sau khi bản án sơ thẩm có hiệu lực là những tài sản được xác định giao dịch liên quan đến những tài sản này nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án nên bà Nguyễn Thị Mộng H đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó.
Ngày 02/02/2023 TAND thành phố TN ra thông báo thụ lý số 20/TB-TLVA về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” của bà Nguyễn Thị Mộng H – Người được thi hành án trong vụ án Ông Phạm Văn T và Bà Ngô Thị Phương T có trách nhiệm liên đới trả cho Bà Nguyễn Thị Mộng H số tiền là 1.688.007.000 (Một tỷ sáu trăm tám mươi tám triệu không trăm lẻ bảy nghìn đồng).
Tại thời điểm nhận được thông báo thụ lý số 20/TB-TLVA ngày 02/02/2023 TAND thành phố TN ra về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” của bà Nguyễn Thị Mộng H. Cơ quan THADS phải ra quyết định Hoãn thi hành án theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 48 và quy định tại khoản 2, Điều 75 Luật Thi hành án dân sự tuy nhiên ngày 15/09/2023 cơ quan thi hành án dân sự lại ra quyết định án chưa có điều kiện thi hành. Trong thời gian Đoàn TTKS làm việc, yêu cầu CQTHADS xác minh ngay kết quả xử của vụ việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” thì ngày 14/08/2024, CHV đã trực tiếp xác minh tại Tòa án nhân dân thành phố TN và nhận bản án số 225/2024/DS-PT ngày 22/05/2024 với nội dung “Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mộng H đối với Ông Phạm Văn T và Bà Ngô Thị Phương T, Tuyên bố hợp đồng mua bán xe ô tô hiệu MAZDA, biển số 70A – 113.13 giữa bà Ngô Thị Phương T và ông Phạm Phi V là vô hiệu. Tuyên bố “Hợp đồng cho vay kiêm cầm cố tài sản” ngày 02/06/2022 giữa ông Phạm Phi V và công ty cổ phần kinh doanh F88 là vô hiệu một phần đối với phần cầm cố xe ô tô biển số 70A – 113.13”..
Như vậy, Việc cơ quan thi hành án dân sự ra Quyết định án chưa có điều kiện khi đã nhận được thông báo thụ lý số 20/TB-TLVA ngày 02/02/2023 TAND thành phố TN thi hành thay vì Hoãn thi hành án đã làm phát sinh thêm phần lãi chậm trả của người phải thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người phải thi hành án. Đồng thời cũng trái với mong muốn của người được thi hành án, bởi thời điểm nộp đơn khởi kiện việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”, người phải thi hành án có nộp kèm đơn xin Hoãn thi hành án. Tiếp theo đó, đến thời điểm xác minh thấy có tài sản mới là chiếc ô tô MAZDA biển số 70A – 113.13 của bà Nguyễn Thị Phương T đã bán cho ông Phạm Phi V đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu, người phải thi hành án đã có tài sản mới để thi hành án.
Việc cơ quan thi hành án dân sự ra sai quyết định thi hành án từ quyết định Hoãn Thi hành án thành Chưa có điều kiện thi hành án là trái pháp luật. Bên cạnh đó, CHV cũng không xác minh điều kiện thi hành án mới khi có thông tin mới về tài sản. Nên ngày 19/08/2024, VKSND Tối cao đã ban hành quyết định số 01/QĐ – VKSTC kháng nghị hủy Quyết định “chưa có điều kiện thi hành án” số 388/QĐ-CCTHADS ngày 15/19/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN. Yêu cầu ra quyết định tiếp tục thi hành án để tiếp tục thi hành án với tài sản của bà Nguyễn Thị Phương T.
Thực tiễn đã chứng minh, việc Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền năng pháp lý của mình là kiến nghị, kháng nghị trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung và hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự nói riêng đã kịp thời đã góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án làm cho Bản án, Quyết định của Tòa án được Cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành một cách nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, muốn thực hiện nhiệm vụ này có hiệu quả, KSV cần chú ý những vấn đề sau:
Một là: Đối với công chức, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ kiểm sát thi hành án dân sự cần nắm vững các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc kiến nghị, kháng nghị. Vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật khi kiểm sát định kỳ hoặc đột xuất tại cơ quan thi hành án dân sự. Thường xuyên cập nhật các văn bản có liên quan đến công tác thi hành án dân sự. Chủ động nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát chặt chẽ hoạt động xác minh điều kiện thi hành án trọng nhằm kịp thời phat hiện vi phạm. Nắm chắc các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án và các tài liệu khác thu thập được trong quá trình kiểm sát, đối chiếu quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, các bước tiến hành …để xác định chính xác vi phạm, từ đó áp dụng đúng quy định của pháp luật. Trường hợp phức tạp và có nhiều ý kiến trái chiều giữa các cơ quan ban ngành liên quan, cần kịp thời báo cáo cho Lãnh đạo đơn vị trước khi ban hành kiến nghị, kháng nghị. Mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm và thường xuyên cập nhật, phản ánh đầy đủ, chính xác vi phạm đã phát hiện.
Hai là, Trước khi thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị cần cân nhắc, thảo luận thật kỹ, đánh giá mức độ vi phạm của CHV và cơ quan THADS xem lỗi xác minh đó là nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng. Nên sử dụng quyền kiến nghị hay kháng nghị đối với hành vi vi phạm của CHV, Quyết định của cơ quan thi hành án dân sự. Nhất là khi thực hiện kháng nghị, cần bàn bạc với tập thể lãnh đạo đơn vị xét thấy cần thiết thì phải xin ý kiến nghiệp vụ cấp trên. Bảo đảm kiến nghị, kháng nghị phải chính xác đúng quy định của pháp luật.
Ba là: Việc kiến nghị của viện kiểm sát nhân dân ngoài chủ thể là cơ quan thi hành án dân sự mà phải xem xét kiến nghị đối với cả những vi phạm của các cơ quan khác liên quan đến công tác thi hành án dân sự. Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, để nắm rõ thông tin tài sản, Cơ quan THADS cần tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức khác như: ngân hàng, văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan đăng ký quyền sở hữu phương tiện giao thông… Việc các cơ quan, tổ chức có liên quan chậm trễ, hoặc không phối hợp trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án cũng ảnh hưởng đến kết quả chung của hoạt động thi hành án dân sự. Chính vì thế, căn cứ tại Điều 28 Luật Tổ chức VKSND 2014, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu các cơ quan hữu quan phối hợp trong quá trình cung cấp thông tin, phục vụ quá trình xác minh điều kiện thi hành án. Đồng thời yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện đầy đủ chức trách nhiệm vụ của mình, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trả lời văn bản yêu cầu xác minh của cơ quan THADS.
Bốn là: Để văn bản kiến nghị, kháng nghị phát huy được hiệu lực, hiệu quả cần phải thực hiện đúng thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 160 Luật thi hành án dân sự. Nội dung văn bản kiến nghị, kháng nghị tập trung chủ yếu vào các dạng vi phạm mới, hạn chế lặp lại các nội dung của các bản kiến nghị, kháng nghị trước. Những vi phạm có tính chất lặp đi lặp lại cần tổng hợp để ban hành kiến nghị chung. Kiến nghị, kháng nghị phải được ban hành đúng theo mẫu. Nội dung kháng nghị, kiến nghị không nêu dài dòng, nêu đúng trọng tâm. Theo dõi việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị của VKSND và yêu cầu báo cáo kết quả thực hiện cho VKSND được biết.
Năm là: Khi đã ban hành kiến nghị, kháng nghị cần theo dõi, yêu cầu phúc đáp, định kỳ tiến hành phúc tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát.
Thông qua công tác kiến nghị, kháng nghị đối lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung với hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự nói riêng nhằm giúp cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan có liên quan đến công tác thi hành án dân sự sửa chữa, khắc phục kịp thời những sai sót, vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đồng thời thúc đẩy tiến độ giải quyết việc thi hành án dân sự, đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án được thi hành triệt để, chính xác, đầy đủ, đúng quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án. Từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của nhà nước cũng như của công dân, tăng thêm niềm tin của người dân vào pháp luật góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của Ngành kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
[1] Điều 44, 44a, 45 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về xác minh điều kiện thi hành án; tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, quy định về xác minh điều kiện thi hành án; tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC- VKSNDTC ngày 01/8/2016 của liên ngành Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, quy định về xác minh điều kiện thi hành án; Điều 10 Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC ngày 20/12/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) quy định về kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.
[2] https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/kinh-nghiem-kiem-satviec-xac-minh-dieu-kien-thi-h-d10-t768.html