Mức độ đáp ứng của pháp luật tố tụng dân sự trước yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở việt nam hiện nay

Lê Văn Hảo, GVC – Trưởng Khoa Quan hệ quốc tế,
Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP HCM

Từ góc độ nghiên cứu khoa học và thực tiễn có thể thấy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp công nghệ trong các ngành, lĩnh vực như: khoa học vật lý, công nghệ số và công nghệ sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế – xã hội của hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta. Có thể khái quát bốn đặc trưng của Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên các yếu tố phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ sau đây: (1) công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh. (2) sử dụng công nghệ in 3D, 4D, 5D… để sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ. (3) công nghệ nano và vật liệu mới trong khoa học vật lý tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. (4) trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian, tương tác nhanh hơn và chính xác hơn. Có thể nói, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp các quốc gia có cơ hội phát triển thịnh vượng hơn, kết nối và hội nhập nhanh chóng, dễ dàng hơn, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân.

Từ sự tác động đa chiều của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều nhà khoa học trên thế giới và cả ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này tác động làm thay đổi cơ cấu việc làm và có thể mang lại sự bất bình đẳng lớn hơn trong đời sống xã hội của hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, các yếu tố ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; đặc biêt là ảnh hưởng lớn đến nhiều phương diện và quan hệ của Nhà nước và pháp luật; có thể khái quát về vấn đề này như sau:

Đối với chủ thể là nhà nước: tốc độ thay đổi nhanh chóng của nền công nghiệp 4.0 buộc nhà nước phải thay đổi cách tiếp cận khi xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế. Bởi vì, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ (thời đại kỹ thuật số) đang làm cho bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp phải có những thay đổi căn bản trong việc nghiên cứu, xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và thiết lập các quy tắc xử sự để hoạt động hiệu quả hơn. Do vậy, về xu hướng cơ cấu bộ máy Nhà nước ở các quốc gia dựa trên những chính thể khác nhau đều cần được thiết kế linh hoạt và mềm dẻo hơn để thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này.

Đối với hệ thống pháp luật: sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi quá trình xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế phải có sự thay đổi và hình thành tư duy mới về pháp luật trên cơ sở nền tảng pháp luật pháp quyền, dân chủ và cần ưu tiên phát triển, ứng dụng về công nghệ pháp luật trên cả luật nội dung và luật hình thức để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và hội nhập quốc tế để phát triển.

 Trên cơ sở thực hiện chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” trong Tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung đánh giá khái quát về quy định và thực trạng tổ chức thực thi pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam ở một số khía cạnh theo tinh thần cải cách tư pháp, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong giai đoạn mới. Theo kết quả thống kê của cơ quan chức năng, tính đến thời điểm hiện tại, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã triển khai tổ chức thực hiện trên thực tế được hơn 400 luật và bộ luật. Trong đó, Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành lần đầu tiên năm 2004[1] (thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự). Theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, quy trình tố tụng dân sự tại Toà án có sự thay đổi căn bản theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch. Trong đó, đương sự có vai trò quyết định và chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Toà án. Đến năm 2015, để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, ngày 25/11/2015, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 30/6/2016, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự. Ngày 31/8/2016, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS … BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này đã quy định bổ sung nhiều vấn đề mới như nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24), hậu quả của việc đương sự không hoàn thành nghĩa vụ chứng minh (Điều 91), phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải vụ án dân sự (Điều 208), thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự (từ Điều 316 đến Điều 324), thủ tục xét tính hợp pháp của cuộc đình công (từ Điều 403 đến Điều 413) v.v… Việc Nhà nước ban hành BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã làm cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

Hiện nay, trước yêu cầu đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết 27-NQ/TW, ngày 19/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII thì việc tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp Luật tố tụng dân sự là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Từ thực tiễn công tác xét xử và kiểm sát xét xử các vụ án dân sự theo thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm vừa qua, chúng tôi cho rằng cần đánh giá và dự báo được mức độ đáp ứng (thích ứng) của pháp luật Tố tụng dân sự trước yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời đánh giá được những yếu tố tác động trực tiếp đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ở một số khâu công tác nghiệp vụ sau đây:

Thứ nhất, về thực hiện quyền khởi kiện tranh chấp dân sự và cách thức người khởi kiện gửi đơn khởi kiện tại Toà án.

Quyền khởi kiện vụ án dân sự là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được hiến định. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện việc chuyển đổi số tại Toà án và cơ quan Công tố/Viện kiểm sát… để chuyển đổi các hoạt động như nộp đơn khởi kiện theo phương pháp truyền thống sang hệ thống nộp đơn điện tử để đưa hoạt động của Toà án đến gần dân hơn với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể kể đễn các quốc gia tiên phong trong lĩnh vực này như: Mỹ, Trung Quốc v.v… Thông thường để thực hiện nộp đơn khởi kiện và các hoạt động tố tụng theo hình thức trực tuyến, các bên đương sự phải đăng ký tài khoản với tên thật trên nền tảng tố tụng trực tuyến do Toà án có thẩm quyền cung cấp. Trên cơ sở đó, Toà án sẽ xác thực số điện thoại của đương sự, số căn cước công dân, số hộ chiếu để xác thực danh tính của đương sự. Sau khi phần mềm đã xác thực danh tính online, đương sự sẽ được cấp một tài khoản cá nhân để đăng nhập vào nền tảng tố tụng điện tử. Đương sự có nghĩa vụ bảo mật tài khoản này và mật khẩu đăng nhập cá nhân. Khi đã được cấp tài khoản, mọi hành vi tố tụng được thực hiện trên nền tảng tố tụng điện tử khi đăng nhập vào tài khoản này sẽ được coi là hành vi tố tụng bởi chính chủ tài khoản đã được xác thực, trừ trường hợp có chứng cứ chứng minh rằng tài khoản đăng nhập của đương sự bị đánh cắp hoặc lỗi hệ thống phần mềm[2].

Ở Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: Cơ quan tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện bằng hành vi khởi kiện[3]. Khi đương sự thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự, về hình thức phải làm đơn khởi kiện theo mẫu quy định tại khoản 1 Điều 189 BLTTDS năm 2015, mẫu đơn khởi kiện được quy định tại mẫu số 23 của Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong việc hướng dẫn đương sự trình bày các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp; BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cách thức người khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến Tòa án bằng hình thức gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Đây là quy định nhằm mở rộng quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân và công dân trong việc khởi kiện tranh chấp dân sự tại Toà án qua hình thức trực tuyến để đảm bảo tính công khai, minh bạch, công bằng và kịp thời.

Thứ hai, việc thu thập chứng cứ, tài liệu để phục vụ cho việc giải quyết vụ án dân sự tại Toà án (Điều 81, Bộ luật TTDS năm 2015).

Để có đầy đủ cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý giải quyết đúng đắn vụ án thì việc phát hiện, bảo quản, thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ là nhiệm vụ “sống còn” trong việc giải quyết các vụ án dân sự, nhất là đối với những loại chứng cứ có tính nhạy cảm cao như chứng cứ tồn tại trên các thiết bị điện tử, mạng xã hội (facebook, zalo, Messenger, Viber…) mạng máy tính, mạng viễn thông. Bởi vì, các chứng cứ, tài liệu này sẽ để lại các dấu vết điện tử được ghi lại, lưu truyền dưới dạng dữ liệu điện tử như logfile, IP, domain, mã độc, thời gian, không gian mạng, tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử, có thể nhận biết, phát hiện, bảo quản, và ghi lại vào ổ USB, đĩa CD/VCD…hoặc in ra giấy, ảnh và có thể sử dụng làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, để sử dụng dữ liệu điện tử làm chứng cứ trong giải quyết vụ án, vụ việc dân sự cần tuân thủ những yêu cầu nhất định như: Việc thu thập dữ liệu điện tử phải hợp pháp; chứng cứ điện tử được sử dụng làm căn cứ trong quá trình tố tụng phải đảm bảo có liên quan và cần thiết, hợp pháp và tuân thủ các yêu cầu về thủ tục; bảo đảm tính xác thực, tính toàn vẹn hoặc chính xác. Một thông tin được rút ra từ dữ liệu điện tử để được coi là chứng cứ phải đảm bảo thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Để đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ điện tử thì việc thu thập và đánh giá chứng cứ phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 94 đã quy định nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử, khoản 3 Điều 95 còn quy định để xác định tính hợp pháp của chứng cứ điện tử và được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Theo quy định của pháp luật, giao dịch điện tử phải được phát hiện, bảo vệ, thu thập, bảo quản, đánh giá và sử dụng theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Thứ ba, ứng dụng giao dịch điện tử trong hoạt động tống đạt các văn bản tố tụng của Toà án cho đương sự tham gia trong vụ án dân sự.

Hiện nay, giao tiếp điện tử trong và ngoài nước thông qua internet ngày càng trở nên phổ biến, nhất là trong các lĩnh vực kinh doanh và một số lĩnh vực khác. Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ thông tin đã  tác động đến mọi lĩnh vực và cách thức truyền thông. Pháp luật tố tụng dân sự hầu hết các nước hiện nay đã thừa nhận phương thức tống đạt điện tử các văn bản tố tụng bên cạnh các phương thức tống đạt truyền thống như tống đạt trực tiếp hay tống đạt qua đường bưu điện. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng đã ghi nhận giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu trên nền tảng tố tụng của Toà án. Cụ thể, khoản 2 Điều 176 BLTTDS năm 2015 quy định “Việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử”. Vấn đề này đang được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của BLTTDS năm 2015. Theo đó, đương sự được lựa chọn giao dịch điện tử với Tòa án theo một trong các hình thức sau: Gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án; Chỉ nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báo. Tuy nhiên, việc gửi này phụ thuộc nhiều vào ý chí của đương sự nên thực tiễn áp dụng chưa được phổ biến vì vẫn còn những ràng buộc pháp lý quy định: “Cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử” (khoản 2 Điều 173 BLTTDS năm 2015).

Thứ tư, về việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án dân sự.

Đối với các tài liệu, chứng cứ mà đương sự nộp qua Cổng thông tin điện tử, khoản 1 Điều 19 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP quy định: “Người khởi kiện, người tham gia tố tụng đã gửi tài liệu, chứng cứ qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án phải nộp bản chính hoặc bản sao hợp pháp tài liệu, chứng cứ đó chậm nhất là tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại. Đối với các tài liệu, chứng cứ mà người tham gia tố tụng gửi cho Tòa án bằng phương tiện điện tử sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại thì thời hạn giao nộp bản chính và bản sao hợp pháp tài liệu, chứng cứ đó được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng”.

Thứ năm, thủ tục hoà giải trực tuyến trong tố tụng dân sự

Xu thế chuyển đổi phương thức hoà giải trực tiếp tại Toà án sang hoàn giải trực tuyến trên nền tảng công nghệ số đang là xu thế tất yếu trong tố tụng dân sự các nước trên thế giới. Bởi vì nó không những tiết kiện được thời gian, chi phí của các chủ thể tham gia hoà giải mà còn phát huy được thế mạnh của công nghệ để tiến hành hoà giải đạt hiệu quả cao hơn so với môi trường hoà giải trực tiếp tại Toà án. Trung Quốc là quốc gia ứng dụng hoà giải trực tuyến rất thành công trong Tố tụng dân sự. Trên cơ sở nền tảng hoà giải trực tuyến trong tố tụng dân sự, ngày 31/12/2021, Toà án nhân dân tối cao Trung Quốc đã ban hành Quy chế hoà giải trực tuyến của Toà án nhân dân, hoàn thiện một bước khung pháp lý cho hoà giải trực tuyến, quy định cụ thể về hoà giải trực tuyến được tiến hành qua các nền tảng hoà giải trực tuyến của Toà án nhân dân trong tố tụng dân sự.

Thứ sáu, phiên toà, phiên họp trực tuyến trong Tố tụng dân sự đang dần trở thành xu thế tất yếu trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu ứng dụng mạng internet, kết nối vạn vật và điện toán đám mây trong tố tụng dân sự, cho phép các Toà án tiến hành các phiên toà, phiên họp trực tuyến. Tuy nhiên, hoạt động tổ chức phiên toà, phiên họp để giải quyết vụ án, vụ việc dân sự tại Toà án là giai đoạn rất quan trọng trong quy trình tố tụng cần được cân nhắc kỹ lưỡng và có sự chuẩn bị đầy đủ nhất cả về nền tảng công nghệ, cơ sở vật chất và con người (HĐXX) thực hiện quy trình giải quyết vụ án, vụ việc trên nền tảng công nghệ số. Đặc biệt cần cân nhắc đến việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, tổ chức và quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Mặt khác, tổ chức phiên toà trực tuyến có thể gây ảnh hưởng lớn đến quyền thủ tục công bằng của đương sự trong vụ án, vụ việc dân sự.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của Việt Nam đã có một số quy định về tố tụng điện tử, tố tụng trực tuyến, tạo cơ sở bước đầu cho việc tổ chức phiên tòa trực tuyến, trong đó có phiên toà xét xử các vụ án dân sự. Hiện nay, cả Toà án và Viện kiểm sát nhân dân các cấp đang ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ thông tin và các hoạt động tố tụng như: Mã hoá các hồ sơ, tài liệu, các bút lục và thực hiện sơ đồ hoá tư duy khi báo cáo án và sơ đồ hoá hiện trường vi phạm pháp luật cả trong các vụ án hình sự và dân sự, hành chính…

Thứ bảy’; trường hợp Toà án áp dụng các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia liên quan đến việc ủy thác thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh để  giải quyết vụ án, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài (quy định tại Điều 472 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

      Đối với ngành Kiểm sát nhân dân, nhận thấy rõ yêu cầu của Cách mạng công 4.0 đặt ra trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Ngày 17/5/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-VKSTC về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân để tạo bước chuyển biến tích cực trong việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và thúc đẩy chuyển đổi số vào công tác chuyên môn nghiệp vụ trong toàn Ngành. Chỉ thị xác định việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong toàn Ngành là khâu đột phá, trọng tâm của năm 2021 và các năm tiếp theo, hướng tới xây dựng một hệ thống thông tin ngành Kiểm sát nhân dân hiện đại trên cơ sở các quy trình nghiệp vụ và cơ cấu tổ chức hợp lý, đưa công nghệ thông tin trở thành một yếu tố nền tảng trong hệ thống các quy trình nghiệp vụ kiểm sát hiện đại, đáp ứng tốt các yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới. Với ý nghĩa và phương châm đó Viện trưởng VKSND tối cao đã chỉ đạo xây dựng Đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2021-2030”, phát triển Viện kiểm sát điện tử hướng đến Viện kiểm sát số, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2025, cơ bản hoàn thành xây dựng Viện kiểm sát điện tử với đặc trưng là tất cả các hoạt động, lĩnh vực công tác được tin học hóa, ứng dụng công nghệ thông tin ở mức cao nhất và hoàn thành chuyển đổi số đồng bộ, toàn diện đối với các lĩnh vực hoạt động của VKSND. Đến năm 2030, trên cơ sở nền tảng Viện kiểm sát điện tử, từng bước chuyển các hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân lên môi trường số (Viện kiểm sát số). Như vậy, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tư pháp dân sự sẽ đáp ứng được yêu cầu của nền tư pháp điện tử, trong sự đồng bộ với Toà án nhân dân và các cơ quan trong bộ máy tư pháp khác.

Một số kiến nghị

1) Tại khoản 2 Điều 97 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án nhưng lại không quy định về biện pháp thu thập nguồn dữ liệu điện tử của Toà án cũng như trình tự, thủ tục thu thập nguồn dữ liệu điện tử. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng toà án điện tử trong giải quyết các vụ, việc dân sự, thông qua đó sẽ nâng cao khả năng tiếp cận công lý và các thông tin của công dân, giảm bớt các công việc hành chính tại toà án, hỗ trợ thẩm phán trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động xét xử của toà án.

2) Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi cơ quan lập pháp, cơ quan thực hiện pháp luật cần có thay đổi cách tiếp cận và tư duy pháp lý theo hướng thay đổi mạnh mẽ từ chỗ thụ động, “chạy theo” sự việc, hiện tượng xã hội và quan hệ xã hội sang chủ động, đón đầu và định hướng cho quan hệ xã hội.

3) Hệ thống cơ quan Tư pháp mà chủ lực là Toà án, Viện kiểm sát các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên nhiều phương diện, đa chiều, dự báo trước tình hình để tham mưu cho Quốc hội ban hành mới cũng như sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật nói chung và đặc biệt là các quy đinh của pháp luật TTDS nói riêng để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm thực hiện có hiệu lực, hiệu quả công cuộc Cải cách tư pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang biến đổi mạnh mẽ như hiện nay và trong những năm tiếp theo. /.

[1] Ngày 15/6/2004, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5 – Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2005 và được Quốc hội Khoá XII sửa đổi, bổ sung năm 2011.

[2] Điều 8 Quy chế tranh tụng trực tuyến của Toà án nhân dân Tối cao Trung Quốc năm 2021.

[3]Quy định tại khoản 1, Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.