Phân tích những điểm mới trong hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2025
Ths. Nguyễn Thị Phượng – Ths. Lê Thị Duyên – GV Khoa Dân sự – hành chính và Kiểm sát hoạt động tư pháp – Phân hiệu Trường Đại học kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Mở đầu
Hoạt động kiểm sát Thi hành án dân sự (THADS) là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), nhằm bảo đảm việc thi hành án đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động THADS. Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (Luật TCVKSND năm 2014) đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 24/11/2014 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 82/2025 QH15 (sau đây gọi tắt là Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025) đã có những bổ sung, chỉnh lý nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao hiệu quả kiểm sát THADS.
Bài viết này tập trung phân tích, so sánh quy định tại Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014 với Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025, qua đó chỉ ra những điểm mới, ý nghĩa thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện.
2. So sánh quy định Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi năm 2025
2.1. Về thẩm quyền, phạm vi kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án
Một trong những điểm sửa đổi đáng chú ý của Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 so với Luật TCVKSND năm 2014 là sự thay đổi về thẩm quyền, phạm vi kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án. Nếu như Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014 quy định: “Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tòa án”[1] thì Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 đã sửa thành: “Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án”[2].
Sự thay đổi này, không chỉ là vấn đề kỹ thuật lập pháp về ngôn từ, mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát. Thuật ngữ “đính chính” được sử dụng trong Luật TCVKSND năm 2014 vốn phù hợp với các Bộ luật tố tụng trước đây (BLTTDS 2004, BLTTHS 2003). Tuy nhiên, từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực, thuật ngữ chính thức được sử dụng là “sửa chữa, bổ sung” bản án, quyết định. Việc tiếp tục duy trì khái niệm “đính chính” trong Luật TCVKSND 2014 đã dẫn đến sự không thống nhất, tiềm ẩn khó khăn khi áp dụng.
Khái niệm “sửa chữa, bổ sung” có phạm vi rộng và bao quát hơn “đính chính”. Nếu “đính chính” chủ yếu giới hạn trong việc chỉnh sửa lỗi chính tả, số liệu, câu chữ, thì “sửa chữa” cho phép khắc phục các sai sót về mặt kỹ thuật, hình thức của bản án, quyết định; còn “bổ sung” là việc thêm những nội dung quan trọng mà Tòa án đã bỏ sót, như nghĩa vụ về án phí, lãi suất, hay trách nhiệm của các bên liên quan. Điều này phản ánh đúng thực tiễn xét xử, khi bản án, quyết định không chỉ cần chỉnh lý hình thức mà đôi khi phải được bổ sung nội dung để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và tính khả thi của việc thi hành án.
Với sự điều chỉnh này, phạm vi kiểm sát của Viện kiểm sát cũng được mở rộng và rõ ràng hơn. Viện kiểm sát không chỉ theo dõi việc Tòa án ban hành, cấp phát, giải thích bản án, quyết định, mà còn giám sát chặt chẽ quy trình sửa chữa, bổ sung – những khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên trong vụ án. Qua đó, Viện kiểm sát có cơ sở pháp lý vững chắc hơn khi yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm, đảm bảo tính hợp pháp, thống nhất và kịp thời trong hoạt động xét xử.
Như vậy, sự thay đổi từ “đính chính” sang “sửa chữa, bổ sung” tại Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi 2025 không chỉ đơn thuần là sửa câu chữ, mà còn là sự hoàn thiện về nội dung pháp lý, khắc phục hạn chế của Luật TCVKSND 2014, bảo đảm sự tương thích với pháp luật tố tụng hiện hành. Đây là bước tiến quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc xét xử, đồng thời củng cố vị thế, vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2.2. Về nhiệm vụ trực tiếp kiểm sát trong thi hành án dân sự
Theo số liệu thống kê về số cuộc trực tiếp kiểm sát (TTKS) của VKSND trong 5 năm trở lại đây:
Cơ quan bị TTKS | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 |
Tổng số cuộc kiểm sát trực tiếp đã hoàn thành | 1002 | 995 | 1107 | 1170 | 1225 |
Số cuộc TTKS đối với Cơ quan THADS cùng cấp | 856 | 876 | 943 | 1,006 | 1,057 |
Số cuộc TTKS đối với Cơ quan THADS cấp dưới | 108 | 115 | 145 | 144 | 164 |
Số cuộc TTKS đối với Cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc THADS | 41 | 4 | 19 | 20 | 3 |
Nguồn: Bảng tổng hợp số liệu THADS (2020-2024) Vụ 11 – VKSTC
Từ bảng số liệu trên có thể thấy, VKSND chủ yếu tiến hành TTKS đối với các cơ quan THADS cùng cấp, số lượng TTKS với cơ quan THADS cấp dưới chỉ chiếm khoảng 12%; Số lượng TTKS đối với Cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc THADS chỉ chiếm 0,1% là một con số quá khiêm tốn trên tổng số cuộc TTKS mà VKSND đã tiến hành trong 5 năm qua. Đây là điểm đáng lưu ý, bởi sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thi hành án đúng pháp luật, nhưng dường như chưa được chú trọng tương xứng.
So sánh quy định Tại Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014, một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động tư pháp được quy định là: “Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.”[3] Quy định này thể hiện phạm vi kiểm sát trực tiếp của Viện kiểm sát nhân dân chủ yếu tập trung vào hệ thống cơ quan THADS theo mối quan hệ dọc (cùng cấp, cấp dưới), đồng thời có sự mở rộng nhất định khi đề cập đến Chấp hành viên và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, việc quy định theo hướng “cùng cấp và cấp dưới” đã làm phát sinh cách hiểu mang tính cứng nhắc, chưa thật sự bao quát, dẫn đến một số trường hợp Viện kiểm sát khó có căn cứ pháp lý đầy đủ để thực hiện kiểm sát đối với cơ quan, tổ chức ngang cấp hoặc các chủ thể ngoài hệ thống cơ quan thi hành án nhưng có tham gia vào quá trình tổ chức thi hành án.
Đến Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025, quy định trên đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng: “Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan THADS, Chấp hành viên, tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.”[4] Điểm mới quan trọng ở đây là: (i) bỏ cụm “cùng cấp và cấp dưới” mở rộng phạm vi kiểm sát, giúp Viện kiểm sát có thể thực hiện quyền kiểm sát với tất cả các cơ quan THADS mà không bị giới hạn về cấp; (ii) bổ sung cụm “tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS” ghi nhận thực tiễn ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân ngoài cơ quan thi hành án được giao tham gia các khâu trong quá trình tổ chức thi hành án, như tổ chức đấu giá tài sản, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng thực hiện phong tỏa, khấu trừ tài khoản, chính quyền địa phương hỗ trợ kê biên, cưỡng chế…
Như vậy, có thể thấy quy định Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 đã khắc phục được thiếu bao quát của Luật TCVKSND năm 2014, mở rộng hơn về phạm vi, đối tượng bị trực tiếp kiểm sát, bảo đảm cho Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện quyền kiểm sát toàn diện đối với mọi hoạt động THADS. Đây là sự thay đổi có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực THADS, đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn mới.
2.3. Về đối tượng của quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động Thi hành án dân sự
Luật TCVKSND năm 2014 quy định VKSND kiểm sát cơ quan THADS cùng cấp, cấp dưới, chấp hành viên; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 bổ sung thêm “tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS”.
Quyền yêu cầu được quy định trong Luật TCVKSND năm 2014 khi đó được giới hạn ở phạm vi yêu cầu đối với cơ quan THADS, chấp hành viên, cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan… cung cấp hồ sơ, tài liệu, báo cáo để phục vụ công tác kiểm sát. Điều này dẫn đến hạn chế nhất định, bởi trên thực tế, quá trình THADS còn liên quan đến nhiều chủ thể khác như cơ quan quản lý đất đai, ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức thẩm định giá, đấu giá viên, chính quyền địa phương… Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 đã có sự điều chỉnh đáng chú ý khi mở rộng đối tượng kiểm sát và đối tượng bị yêu cầu. Theo đó, bên cạnh cơ quan THADS và Chấp hành viên, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan… còn có thể yêu cầu các chủ thể khác “được giao nhiệm vụ tổ chức THADS” cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, giải trình về việc chấp hành pháp luật trong hoạt động THADS. Quy định này làm rõ hơn phạm vi chủ thể chịu sự kiểm sát, đồng thời trao cho Viện kiểm sát công cụ pháp lý rộng hơn để bảo đảm tính toàn diện trong kiểm sát.
Về đối tượng tiếp nhận kiến nghị: Khi so sánh quy định tại Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014 và Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025, có thể nhận thấy quyền kiến nghị về cơ bản được kế thừa, song đã có những bổ sung mới có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
Cả hai Luật đều quy định chung về đối tượng nhận kiến nghị là “Tòa án, cơ quan THADS, Chấp hành viên; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền”. Tuy nhiên, dưới điều chỉnh của Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 phạm vi này được giải thích rộng hơn, bao gồm không chỉ cơ quan THADS, mà còn cả “các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS” như chính quyền địa phương, cơ quan quản lý tài sản, tổ chức tín dụng, tổ chức thẩm định giá, đấu giá viên… Như vậy, mặc dù về mặt câu chữ không thay đổi nhiều, song thực tiễn áp dụng đã mở rộng phạm vi áp dụng quyền kiến nghị, bảo đảm bao quát được toàn bộ các chủ thể có khả năng gây ra vi phạm.
Theo thống kê số lượng kiến nghị trong giai đoạn 2020–2024, theo số liệu tổng hợp của Vụ kiểm sát THADS – Thi hành án hành chính (Vụ 11) từ các báo cáo tổng kết công tác kiểm sát THADS của VKSNDTC, toàn ngành Kiểm sát đã ban hành hơn 7.036 bản kiến nghị đối với cơ quan THADS; ban hành 1258 kiến nghị đối với tòa án liên quan đến lĩnh vực THADS; Ban hành 672 kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan đến lĩnh vực THADS. Như vậy, có thể thấy hoạt động ban hành kiến nghị đã được triển khai rộng rãi, đa dạng đối tượng, trong đó tập trung nhiều nhất vào cơ quan THADS – nơi trực tiếp tổ chức thi hành án. Việc kiến nghị đối với Tòa án và các cơ quan, tổ chức hữu quan tuy chiếm tỷ lệ thấp hơn nhưng lại có ý nghĩa quan trọng, góp phần tăng cường phối hợp liên ngành, kịp thời khắc phục vi phạm, thiếu sót trong quá trình tổ chức THADS.
Việc mở rộng đối tượng nhận kiến nghị của VKSND tạo nên tính bao quát và toàn diện hơn trong công tác kiểm sát THADS. Không chỉ tập trung vào Cơ quan THADS, Tòa án mà còn mở rộng tới các tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS, hoạt động này giúp phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những vi phạm, thiếu sót ở nhiều khâu, nhiều lĩnh vực khác nhau. Qua đó, kiến nghị của Viện kiểm sát không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án mà còn tăng cường trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp và các tổ chức hữu quan, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, có thể thấy điểm mới nổi bật của Luật TCVKSND sửa đổi 2025 về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị không nằm ở khía cạnh hình thức hay quy trình thực hiện, mà chính là ở sự mở rộng phạm vi và đối tượng chịu sự tác động của các quyền này. Quy định mới không chỉ bảo đảm tính bao quát hơn trong hoạt động kiểm sát, mà còn góp phần tăng cường trách nhiệm phối hợp liên ngành, nâng cao hiệu quả phòng ngừa, khắc phục vi phạm trong THADS.
2.4. Về đối tượng của quyền kháng nghị, nội dung xử lý vi phạm khi nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
Kháng nghị là quyền năng pháp lý quan trọng nhất của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát THADS, với tính chất quyết định, buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải xem xét, xử lý vi phạm. Khi đối chiếu Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014 và Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025, có thể nhận thấy nội dung quyền kháng nghị được kế thừa cơ bản, song cũng có những điểm bổ sung mới, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công cụ này.
Thứ nhất, về đối tượng chịu tác động của quyền kháng nghị: Luật TCVKSND năm 2014 quy định VKSND có quyền kháng nghị quyết định của Tòa án, quyết định, hành vi của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới theo quy định của pháp luật. Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 mở rộng đối tượng chịu tác động bởi quyền kháng nghị của VKSND là “các tổ chức, cá nhân khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS” theo quy định của pháp luật. Điều này, có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của VKSND trong kiểm sát thi hành án dân sự. Bởi lẽ, các quyết định, hành vi trong hoạt động THADS đến từ nhiều nhóm cơ quan, lâu nay, Viện KSND chủ yếu kháng nghị các quyết đinh, hành vi của cơ quan THADS có vi phạm. Theo thống kê của Vụ 11 – Viện kiểm sát tối cao trong 05 năm từ (2020 – 2024) VKSND đã ban hành 628 bản kháng nghị với cơ quan THADS. Nhưng không có kháng nghị nào, mà đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, được giao nhiệm vụ tổ chức THADS. Trước đây, khi phát hiện vi phạm ở các nhóm cơ quan này, VKSND thường sử dụng quyền yêu cầu, quyền kiến nghị thay vì ban hành các văn bản kháng nghị. Tuy nhiên, khi Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 có hiệu lực, quyền kháng nghị của VKSND trong lĩnh vực THADS đã có sự mở rộng đáng kể. Nếu trước đây, phạm vi kháng nghị chủ yếu tập trung vào cơ quan THADS và Chấp hành viên, thì nay đã được mở rộng đến cả những cơ quan, tổ chức khác được giao nhiệm vụ tổ chức THADS, điển hình như tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá tài sản, doanh nghiệp quản lý, khai thác tài sản… Đây là những chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình xử lý tài sản thi hành án, có thẩm quyền ban hành các quyết định, văn bản nghiệp vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc mở rộng quyền kháng nghị của VKSND đối với các tổ chức này là hết sức cần thiết, bởi trên thực tế đã nảy sinh nhiều trường hợp quyết định thẩm định giá, kết quả bán đấu giá tài sản, hay quyết định quản lý, khai thác tài sản thi hành án tồn tại vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác THADS, thậm chí gây thiệt hại nghiêm trọng cho Nhà nước và công dân. Chẳng hạn, tình trạng định giá tài sản thấp hơn nhiều so với giá thị trường, hoặc quá trình bán đấu giá thiếu công khai, minh bạch, đã dẫn tới khiếu nại, tố cáo kéo dài. Nếu không có cơ chế kháng nghị đối với các quyết định này thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự rất khó được bảo vệ kịp thời.
Có thể thấy, quy định mới của Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 không chỉ khẳng định rõ vai trò kiểm sát toàn diện của Viện kiểm sát trong lĩnh vực THADS, mà còn góp phần tăng cường tính nghiêm minh, khách quan, minh bạch trong hoạt động của các chủ thể có liên quan. Đây là một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để VKSND phát huy tốt hơn chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động THADS.
Thứ hai, về nội dung quyền kháng nghị: Luật TCVKSND năm 2014 quy định Viện kiểm sát nhân dân có quyền “yêu cầu đình chỉ việc thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật”[5]. Đây là quy định có tính khái quát cao. Tuy nhiên, cách xử lý vi phạm này còn hạn chế trong cách thức xử lý vi phạm sau khi nhận được kháng nghị của VKSND.
Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 vẫn giữ quy định trên, nhưng bổ sung thêm cách thức xử lý vi phạm như “yêu cầu đình chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật”[6]. Đây là điểm mới quan trọng, việc “thu hồi” quyết định khắc phục được trường hợp quyết định đã ban hành nhưng không thể sửa đổi hoặc bãi bỏ ngay, cần phải hủy bỏ toàn bộ hiệu lực pháp lý để ngăn chặn hậu quả. Trong khi đó, “bổ sung” quyết định đáp ứng những tình huống quyết định chưa đầy đủ nội dung, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, quyền kháng nghị trong Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 đã trở nên toàn diện và thực chất hơn so với Luật TCVKSND năm 2014. Sự bổ sung này giúp làm rõ hơn hiệu lực bắt buộc của kháng nghị buộc chủ thể vi phạm hoặc cấp trên của họ phải có quyết định xem xét và xử lý.
Tóm lại, quyền kháng nghị trong Luật TCVKSND sửa đổi 2025 về cơ bản vẫn kế thừa nội dung của Luật TCVKSND năm 2014, song đã được cụ thể hóa hơn về phạm vi tác động và cách thức xử lý. Có thể thấy, các sửa đổi, bổ sung tại Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 về quyền kháng nghị không nhiều về số lượng và cũng không làm thay đổi căn bản chế định này. Tuy nhiên, điều quan trọng là những sửa đổi đó xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, nhằm khắc phục hạn chế tồn tại trong quá trình áp dụng Luật TCVKSND năm 2014. Bằng việc bổ sung các phương thức xử lý vi phạm như “thu hồi” và “bổ sung” quyết định thi hành án, Luật TCVKSND sửa đổi 2025 đã mang lại cho Viện kiểm sát công cụ pháp lý đầy đủ và linh hoạt hơn, giúp kháng nghị không chỉ dừng lại ở hình thức yêu cầu mà còn gắn liền với cơ chế thực thi khả thi. Đây là những thay đổi tuy nhỏ về mặt kỹ thuật nhưng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm cho kháng nghị thực sự trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm sát THADS của VKSND.
3. Kiến nghị
Để những điểm sửa đổi, bổ sung của Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi 2025 thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn, cần có những giải pháp đồng bộ từ phía cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý cũng như trong nội bộ ngành Kiểm sát. Một số kiến nghị cụ thể như sau:
Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Mặc dù Luật TCVKSND sửa đổi 2025 đã bổ sung, cụ thể hóa một số quy định, song để bảo đảm tính khả thi, cần có thông tư liên tịch hoặc văn bản hướng dẫn thống nhất, quy định rõ ràng các bước thực hiện, hình thức văn bản, thẩm quyền ký ban hành, thời hạn trả lời, cũng như mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và cơ quan THADS và các cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án.
Thứ hai, Kiến nghị Luật THADS và các Luật chuyên ngành khác có liên quan đến lĩnh vực THADS nhanh chóng sửa đổi các quy định về hoạt động kiểm sát THADS theo hướng thống nhất với Luật TCVKSND. Trong đó, chú trọng các quy định làm rõ trách nhiệm và chế tài khi cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu, phúc đáp kiến nghị và thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát. Hiện nay, tình trạng chậm cung cấp hoặc không cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin theo yêu cầu của Viện kiểm sát vẫn còn xảy ra. Nhiều kiến nghị bị chậm, hoặc không có văn bản trả lời. Một số kháng nghị chưa được nghiêm chỉnh tiếp thu, chấp hành. Do đó, cần có quy định cụ thể về chế tài xử lý, chẳng hạn như xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm, hoặc cơ chế báo cáo, kiểm điểm trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan liên quan.
Thứ ba, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên. Để nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát THADS, thi hành án hành chính được triển khai hiệu quả, kiểm sát viên cần có năng lực phát hiện vi phạm, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh số liệu, cũng như khả năng lập luận pháp lý vững chắc khi ban hành kiến nghị, kháng nghị. Vì vậy, cần thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu, tập huấn chuyên đề gắn với các tình huống thực tiễn, đồng thời xây dựng đội ngũ kiểm sát viên có bản lĩnh, trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ cao.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về THADS phục vụ công tác kiểm sát. Việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu liên thông giữa Viện kiểm sát, cơ quan THADS và các cơ quan liên quan (ngân hàng, cơ quan đăng ký đất đai, tổ chức tín dụng…) sẽ giúp rút ngắn thời gian thu thập, kiểm tra thông tin, đồng thời nâng cao tính chính xác, minh bạch trong hoạt động kiểm sát. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi số của ngành Kiểm sát và hệ thống tư pháp.
Tóm lại, để những quy định mới của Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 thực sự đi vào cuộc sống, cần có sự kết hợp giữa hoàn thiện pháp luật, tăng cường chế tài, nâng cao năng lực cán bộ và ứng dụng công nghệ. Có như vậy, VKSND mới thực hiện hết nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong công tác khi kiểm sát THADS, thi hành án hành chính nói riêng
4. Kết luận
So sánh Điều 28 Luật TCVKSND năm 2014 và Điều 28 Luật TCVKSND sửa đổi năm 2025 cho thấy, mặc dù không có nhiều thay đổi về cấu trúc cơ bản, nhưng những điểm mới như thẩm quyền, phạm vi kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án, mở rộng đối tượng trực tiếp kiểm sát, đối tượng bị tác động bởi quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị của VKSND. Cụ thể hóa quyền kháng nghị của VKSND trong công tác kiểm sát hoạt động THADS, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý, tăng tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động kiểm sát THADS. Đây là bước tiến mới có ý nghĩa lớn trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
2. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi 2025
3. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
[1] Khoản 1, Điều 28 Luật TCVKSND 2014
[2] Khoản 1, Điều 28 Luật TCVKSND 2025 sửa đổi
[3] Khoản 2, Điều 28 Luật TCVKSND 2014
[4] Khoản 2, Điều 28 Luật TCVKSND 2025 sửa đổi
[5] Khoản 8, Điều 28 Luật TCVKSND 2014
[6] Khoản 8, Điều 28 Luật TCVKSND 2025 sửa đổi