Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan Kiểm lâm
ThS. Nguyễn Thị Thuỳ Liên – Giảng viên Khoa Hình sự,
Phân hiệu Trường Đại học Kiểm sát tại Tp. Hồ Chí Minh
1. Đặt vấn đề
Theo quy định của pháp luật, Kiểm lâm là một trong số các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết đối với các tố giác, tin báo về tội phạm. Để bảo đảm cho hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm được kịp thời, chính xác, khách quan, có căn cứ thì Viện kiểm sát nhân dân được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, phân loại và giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan Kiểm lâm. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến các quy định của pháp luật liên quan đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đối với cơ quan Kiểm lâm trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Đây được xác định là căn cứ pháp lý quan trọng, là cơ sở nền tảng giúp Viện kiểm sát nhân dân các cấp xác định được vai trò, trách nhiệm của mình trong giai đoạn tố tụng đặc biệt này.
2. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm
Khái niệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của Viện kiểm sát nhân dân và được tiến hành trong giai đoạn đầu của quá trình tố tụng, bắt đầu từ thời điểm tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì chức năng thực hành quyền công tố được hiểu là là “hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, thực hành quyền công tố được xác định là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do luật định nhằm xác định hành vi xảy ra có hay không có dấu hiệu tội phạm để xem xét việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời, khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp cũng được quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và được hiểu“là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”. Trên cơ sở khái niệm này, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được hiểu “là hoạt động của VKS nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đảm bảo cho các quyết định, hành vi tố tụng được ban hành trong giai đoạn này có căn cứ và hợp pháp”. Đây là những nội dung quan trọng được xây dựng với mục đích nâng cao trách nhiệm, vai trò của cơ quan Viện kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm nói chung, nguồn tin về tội phạm được tiếp nhận, giải quyết của cơ quan Kiểm lâm nói riêng.
Khi cơ quan Kiểm lâm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, quá trình này được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Viện kiểm sát với hai chức năng nói trên. Với ý nghĩa đó, thực hành quyền công tố trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm được hiểu là “việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để đảm bảo cho cơ quan Kiểm lâm thụ lý đầy đủ những thông tin về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp để giải quyết những thông tin trên theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật”.
Từ nội dung khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và khái niệm về kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm được hiểu là “hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan Kiểm lâm trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho hoạt động này được thực hiện có căn cứ và hợp pháp”.
Như vậy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mà thực hiện tốt hoạt động này sẽ tạo cơ sở cho Cơ quan điều tra nói chung, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động nói riêng (trong đó có cơ quan Kiểm lâm) tiến hành hoạt động tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được thực hiện kịp thời, đúng đắn, khách quan, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm
Trên thực tế, hoạt động của cơ quan Kiểm lâm chịu sự lãnh đạo, quản lý theo hệ thống ngành dọc, các cơ quan Kiểm lâm trực thuộc (Chi cục Kiểm lâm vùng, Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh, Hạt Kiểm lâm thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chịu trách nhiệm và sự chỉ đạo trực tiếp của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm. Nhiệm vụ chính của cơ quan này là thực hiện các công tác liên quan đến hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy, ứng phó với các sự cố có liên quan đến hoạt động lâm nghiệp. Tuy nhiên, do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, với tỷ lệ nguồn tin về tội phạm có xu hướng gia tăng trong khi lực lượng Cơ quan điều tra các cấp thực tế đang tiếp nhận và giải quyết số lượng tin báo, tố giác lớn thì việc giao cho cơ quan Kiểm lâm phụ trách công tác tiếp nhận, giải quyết một phần nguồn tin về tội phạm đối với những thông tin về tội phạm về các tội phạm cụ thể được tiếp cận trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ, thuộc phạm vi, địa bàn quản lý là việc cần thiết, vừa có tác dụng giảm tải cho Cơ quan điều tra các cấp, vừa góp phần nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và trách nhiệm của lực lượng này, đảm bảo chất lượng, hiệu quả, sát với thực tế.
Tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm là một trong những hoạt động được thực hiện xuất phát trên cơ sở yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này, phụ thuộc vào khu vực, địa bàn được giao trách nhiệm quản lý. Do vậy, tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và giải quyết bởi cơ quan Kiểm lâm thường có một số đặc trưng nhất định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này (ví dụ: cơ quan Kiểm lâm mặc dù có thẩm quyền tiếp nhận đối với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm nhưng chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với những tố giác, tin báo về tội phạm khi thuộc một trong số các tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 34 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự (Điều 232, 243, 244, 245, 313, 345 Bộ luật Hình sự)).
Trước tình hình đó, để cơ quan Kiểm lâm có thể thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được kịp thời, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân các cấp có nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết các nguồn tin về các tội phạm nói trên. Mặc dù xuất phát từ những đặc thù nhất định liên quan đến nguồn tin về tội phạm và cơ cấu, tổ chức của cơ quan Kiểm lâm mà quá trình thực hiện chức năng của Viện kiểm sát có những đặc điểm riêng nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm giới hạn đối với những tội phạm do cơ quan Kiểm lâm được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, trách nhiệm giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm bị giới hạn ở những tố giác, tin báo về tội phạm với các tội phạm cụ thể quy định tại các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự như Điều 232 về Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản; Điều 243 về Tội hủy hoại rừng; Điều 244 Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; Điều 245 Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên; Điều 313 Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và Điều 345 Tội vi phạm các quy định về bảo vệ di tích lịch sử – văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng. Có thể thấy, so với hệ thống các Cơ quan điều tra, mức độ tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm có phần hạn chế hơn căn cứ vào chức năng mà cơ quan này được giao, tương ứng với nhiệm vụ chính mà họ thực hiện, vì vậy, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết đối với các tố giác, tin báo của cơ quan Kiểm lâm, Viện kiểm sát cần chú ý thực hiện và tiến hành các công tác liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ngành về những tội phạm nói trên. Trong trường hợp phát hiện cơ quan Kiểm lâm giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm đối với những tội phạm không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép thì cần nhanh chóng tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xử lý theo quy định, tránh kéo dài thời gian làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết nguồn tin.
Thứ hai, thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện tương ứng với thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết của cơ quan Kiểm lâm đối với từng loại vụ việc cụ thể. Thực tế, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp không có lực lượng tương ứng với cơ quan Kiểm lâm, tuy nhiên, vì đây là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và được giao trách nhiệm tiếp nhận và có thẩm quyền xử lý đối với các tố giác, tin báo về tội phạm về một số tội phạm được phát hiện trong phạm vi địa bàn quản lý, do vậy cần phải được kiểm sát chặt chẽ từ phía Viện kiểm sát để bảo đảm hoạt động này được thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Do đó, để có thể bám sát quá trình tiếp nhận, giải quyết của cơ quan Kiểm lâm, Viện kiểm sát cần có quy định cụ thể về việc phân định thẩm quyền để kiểm sát chặt chẽ. Thực tế cho thấy, việc phân cấp thẩm quyền của Viện kiểm sát được thực hiện căn cứ vào cơ cấu phân chia của lực lượng Kiểm lâm. Tức là, theo cơ cấu, lực lượng Kiểm lâm được phân chia theo 4 cấp gồm: Cục Kiểm lâm (trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Chi cục Kiểm lâm Vùng (gồm 4 Vùng được đánh số thứ tự 1, 2, 3, 4), Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh và Hạt Kiểm lâm, như vậy, nếu nguồn tin về tội phạm được tiếp nhận, giải quyết bởi Hạt Kiểm lâm thì thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát thuộc về Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Tương tự, nếu tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và giải quyết bởi lực lượng Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh/Chi cục Kiểm lâm vùng thì thẩm quyền được xác định thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tương ứng.
Thứ ba, trong các trường hợp cụ thể, đối với các tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và giải quyết bởi cơ quan Kiểm lâm có đối tượng thực hiện là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối hợp với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân thì thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin thuộc thẩm quyền của lực lượng Kiểm sát quân sự tương ứng căn cứ vào cấp bậc và chức vụ của đối tượng phạm tội[1]. Quy định này được thực hiện nhằm đảm bảo sự phân cấp về thẩm quyền trong hệ thống Viện kiểm sát các cấp, phù hợp với đối tượng, bản chất của nguồn tin và tương thích với hệ thống cơ quan Kiểm lâm các cấp.
3. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm
3.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021, 2025) (sau đây gọi tắt là BLTTHS) không có quy định cụ thể về nguồn tin về tội phạm. BLTTHS năm 2003, tại Điều 103 quy định về nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trong đó đề cập đến trách nhiệm chung của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin, về thời hạn giải quyết và thông báo cho các chủ thể liên quan khi có kết quả nhưng không có quy định cụ thể về các nội dung liên quan đến công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong đó có cơ quan Kiểm lâm. Do vậy, hoạt động tiếp nhận, giải quyết nguồn tin nói chung, tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm nói riêng được thực hiện căn cứ vào các văn bản hướng dẫn, các quy chế phối hợp được ký kết giữa các cơ quan có liên quan. Đến năm 2013, Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 được ban hành, hướng dẫn quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, văn bản trên đã bộc lộ những thiếu sót, bất cập nhất định và cần thiết phải được thay thế, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của văn bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến hoạt động tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Căn cứ văn bản này, nguồn tin về tội phạm là khái niệm được ghi nhận tại điểm d khoản 1 Điều 4 bao gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện. Từ những thông tin này, cơ quan có thẩm quyền có thể thực hiện các hoạt động kiểm tra, xác minh để từ đó ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự bảo đảm kịp thời, chính xác, khách quan, đúng quy định của pháp luật.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là nội dung mới được ghi nhận từ khi BLTTHS năm 2015 được ban hành. Như đã trình bày, trước thời điểm này, các hoạt động liên quan đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát chủ yếu được thực hiện trên cơ sở các quy chế phối hợp được ký kết giữa các cơ quan liên quan và không có cơ chế để ràng buộc trách nhiệm khi phát sinh vi phạm. Khi được ban hành, BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nội dung các khái niệm tố giác về tội phạm, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, đồng thời quy định về trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục tiếp nhận nguồn tin về tội phạm của các cơ quan. Đặc biệt, nội dung của BLTTHS còn đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm tại các Điều 159, Điều 160 của văn bản luật, các quy định này được áp dụng đối với những nguồn tin về tội phạm nói chung được tiếp nhận, giải quyết bởi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nói riêng, trong đó có cả cơ quan Kiểm lâm.
Cụ thể, Điều 159 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm. Với quy định này, khi cơ quan Kiểm lâm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với các tội phạm cụ thể căn cứ theo thẩm quyền điều tra thì cơ quan Kiểm sát sẽ thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố với các nhiệm vụ cụ thể như: phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn thời hạn tạm giữ; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan Kiểm lâm thực hiện; quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; yêu cầu cơ quan Kiểm lâm khởi tố vụ án hình sự; hoặc trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp Viện kiểm sát phát hiện cơ quan Kiểm lâm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát đối với cơ quan Kiểm lâm được thực hiện thể hiện chức năng buộc tội của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, đảm bảo với quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định, Viện kiểm sát có thể bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm được toàn diện, cũng như các quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm được ban hành chính xác, đúng đối tượng, đúng pháp luật.
Đối với chức năng kiểm sát, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm được quy định tại Điều 160 BLTTHS. Căn cứ quy định của điều luật này, Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát đối với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan Kiểm lâm tiếp nhận, giải quyết; kiểm sát việc lập hồ sơ của cơ quan Kiểm lâm trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; kiểm sát việc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm đối với tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan này tiếp nhận. Trường hợp phát hiện việc tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu cơ quan Kiểm lâm thực hiện một số biện pháp cụ thể để bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đạt hiệu quả, đúng quy định của pháp luật.
3.2. Quy định của các văn bản pháp luật có liên quan
Ngoài quy định của BLTTHS, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát còn được đề cập trong các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó có Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021) (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01/2017) với những quy định cụ thể về chức năng của Viện kiểm sát. Tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017 cũng quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm. Căn cứ quy định này, cơ quan Kiểm lâm là lực lượng được giao nhiệm vụ tiếp nhận đối với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm, tuy nhiên chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với các tố giác, tin báo về tội phạm theo đúng quy định thẩm quyền điều tra của mình, không bao gồm các nguồn tin về tội phạm khác. Điều này có nghĩa là, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm chỉ thực hiện với một số tội phạm được liệt kê trong quy định tại Điều 34 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự tương ứng. Từ đó xác định rằng, thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận của Viện kiểm sát với cơ quan Kiểm lâm cũng được thực hiện theo quy định về thẩm quyền đối với các tội phạm nói trên.
Nhằm mục đích cụ thể hoá quy định của Điều 159 và Điều 160 BLTTHS về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm, Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017 quy định về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Cụ thể, trong thời hạn 03 ngày làm việc, từ thời điểm nhận được quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin, thực hiện phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc phân công Phó Viện trưởng trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo. Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm mà cơ quan Kiểm lâm đã ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự thì Viện kiểm sát thực hiện việc phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng mà không cần ban hành quyết định phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nữa.
Bên cạnh BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017, Quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố của Viện kiểm sát được ban hành kèm theo quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 (sau đây gọi là Quy chế số 111) với các quy định cụ thể, bám sát quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong quá trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin. Căn cứ các quy định cụ thể từ Điều 38 đến Điều 43 Quy chế số 111, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, phân loại của cơ quan Kiểm lâm đối với các tố giác, tin báo về tội phạm, trường hợp phát hiện việc tiếp nhận, phân loại của cơ quan Kiểm lâm chưa chính xác thì kịp thời yêu cầu khắc phục; nếu phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm không đúng thẩm quyền thì báo cáo lãnh đạo, yêu cầu cơ quan đang tiếp nhận chuyển cho cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết. Quá trình thực hiện hoạt động này, Viện kiểm sát cần phải bảo đảm các yêu cầu về mặt hình thức thông qua việc sử dụng các biểu mẫu (từ Mẫu số 01 đến Mẫu số 14) được ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 9/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về việc ban hành mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố.
Để bảo đảm thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm, bên cạnh việc nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ còn cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo nói chung của lực lượng Công an nhân dân, cụ thể là Thông tư số 28/2020/TT-BCA của Bộ Công an ngày 26/3/2020 quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 129/2021/TT-BCA của Bộ Công an ngày 31/12/2021), Thông tư số 119/TT-BCA ngày 8/12/2021 của Bộ Công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách điều tra hình sự. Nội dung Thông tư quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý và giải quyết nguồn tin về tội phạm của lực lượng Công an nhân dân cũng như toàn bộ biểu mẫu, giấy tờ được sử dụng trong quá trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin. Trong bối cảnh chưa có văn bản hướng dẫn quy định riêng về trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết của cơ quan Kiểm lâm thì việc sử dụng quy định chung của ngành công an được đánh giá là phù hợp, thể hiện sự nhất quán trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm, đồng thời tạo điều kiện cho Viện kiểm sát có thể theo sát nội dung để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình được thuận tiện và đạt hiệu quả.
Mặt khác, bên cạnh việc nắm vững và áp dụng có hiệu quả các quy định nêu trên, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của Viện kiểm sát đối với cơ quan Kiểm lâm chỉ có thể được thực hiện tốt khi có sự kết hợp đồng bộ với các quy định khác của pháp luật liên quan như Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự (Điều 9, Điều 34), Luật Lâm Nghiệp (Điều 103, 104, 105, 106), Luật Phòng cháy chữa cháy, Luật Đa dạng sinh học; Nghị định số 01/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/01/2019 về Kiểm lâm và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 159/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/12/2024); Các quyết định quy định về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Kiểm lâm (Quyết định 1586/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Kiểm lâm; các quyết định cụ thể về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các Chi cục Kiểm lâm được ban hành bởi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tương ứng).
4. Kết luận
Như vậy, có thể thấy, chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm là một hoạt động tương đối phức tạp, đòi hỏi phải có sự xâu chuỗi, liên kết và vận dụng một cách có hệ thống, đồng bộ các quy định của pháp luật có liên quan mới đảm bảo thực hiện tốt chức năng này, từ góp phần thúc đẩy, nâng cao chất lượng giải quyết nguồn tin về tội phạm nói chung, nguồn tin về tội phạm của cơ quan Kiểm lâm nói riêng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021);
- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2025);
- Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015;
- Luật Lâm nghiệp năm 2017;
- Luật Đa dạng sinh học năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2018);
- Luật Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ năm 2024;
- Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm;
- Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017;
- Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP ngày 01/6/2020 quy định phối hợp thực hiện một số điều của BLTTHS về quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ;
- Thông tư số 28/2020/TT-BCA của Bộ Công an ngày 26/3/2020 quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân;
- Thông tư số 129/2021/TT-BCA của Bộ Công an ngày 31/12/2021 sửa đổi Thông tư số 28/2020/TT-BCA;
- Thông tư số 119/TT-BCA ngày 8/12/2021 của Bộ Công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách điều tra hình sự;
- Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 9/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về việc ban hành mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố;
- Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố của Viện kiểm sát được ban hành kèm theo.
[1] Báo cáo tổng thuật đề tài khoa học cấp Bộ, Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát quân sự các cấp – Thực trạng và giải pháp, tr.14