Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) – bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng*
CN. Lương Thị Hiền*
Tóm tắt: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, bảo đảm hình phạt áp dụng đối với người phạm tội tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Thực tiễn áp dụng quy định này vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi làm rõ một số vướng mắc, bất cập đó và đưa ra kiến nghị hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả.
Từ khóa: quyết định hình phạt, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Đặt vấn đề
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là một chế định đặc biệt trong quyết định hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội do Tòa án thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật để lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt phù hợp đối với người phạm tội. Khi quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, Tòa án án trước hết phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 50 BLHS, nếu xét thấy mức hình phạt tối thiểu của khung hình phạt mà điều luật đã quy định vẫn quá nghiêm khắc với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong trường hợp này, BLHS cho phép Tòa án quyết định một mức hình phạt thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt đó. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung vẫn chưa phát huy hết vai trò và ý nghĩa của nó. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đưa ra những vướng mắc, bất cập trong quy định cũng như trong việc áp dụng quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
1. Một số vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
Qua nghiên cứu Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) và một số bản án khi áp dụng điều nay làm căn cứ để quyết định hình phạt cùng với một số văn bản hướng dẫn liên quan, nhóm tác giả nêu ra một số vướng mắc, bất cập như sau:
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) quy định như sau: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”.
Theo quy định trên, Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung nhẹ hơn liền kề trước hoặc liền sau của điều luật, nếu có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025). Tuy nhiên, điều luật không quy định rõ hình phạt trong khung liền kề nhẹ hơn phải là hình phạt cùng loại hay có thể áp dụng loại hình phạt khác miễn sao nằm trong khung hình phạt liền kề và vấn đề này hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn nên trên thực tế có 02 quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với người phạm tội, khung hình phạt đó có hình phạt khác loại với hình phạt mà người phạm tội đang bị xét xử thì có thể chuyển sang hình phạt khác loại đó (Ví dụ: Điều khoản đang áp dụng đối với người phạm tội chỉ có tù có thời hạn, điều khoản liền kề nhẹ hơn có cả hình phạt tù có thời hạn và loại hình phạt khác là cải tạo không giam giữ, phạt tiền thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội).
Quan điểm thứ hai cho rằng: khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thì Tòa án có thể dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với người phạm tội và hình phạt được áp dụng đó phải là hình phạt cùng loại với hình phạt mà người phạm tội đang bị xét xử, Bởi lẽ, Điều 54 BLHS không “dùng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn” để áp dụng đối với người phạm tội mà là “quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”. Điều luật này chỉ cho phép Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, tức là trường hợp điều khoản liền kề nhẹ hơn có loại hình phạt khác loại hình phạt mà người phạm tội đang bị xét xử thì Tòa án chỉ có thể áp dụng hình phạt cùng loại của khung nhẹ hơn đó đối với người phạm tội ( Ví dụ: Điều khoản đang áp dụng đối với người phạm tội chỉ có tù có thời hạn, điều khoản liền kề nhẹ hơn có cả tù có thời hạn và loại hình phạt khác là cải tạo không giam giữ, phạt tiền thì Tòa án chỉ có thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở khung nhẹ hơn đối với người phạm tội mà không được áp dụng hình phat tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ).
Nhóm tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ, Khoản 1 Điều 54 BLHS cho phép Tòa án được chuyển sang khung hình phạt liền kề nhẹ hơn để áp dụng đối với người phạm tội, thì dù khung hình phạt liền kề đó có hình phạt cùng loại hay khác loại hình phạt với khung hình phạt trước thì vẫn có thể được Tòa án áp dụng nếu xét thấy hình phạt đó tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và mục đích của hình phạt phát huy được tác dụng đối với từng loại tội phạm cụ thể.
Thứ hai, Khi áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt thì có cần phải thỏa mãn điều kiện ở khoản 1 Điều 54 BLHS hay không. Cụ thể, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án có đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể có cần phải có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Hiện này vấn đề này vẫn còn 02 quan điểm chưa thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, để được áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) thì người phạm tội phải thỏa mãn điều kiện của khoản 1 Điều 54 BLHS, tức là có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS, thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể.
Quan điểm thứ hai cho rằng, người phạm tội chỉ cần phạm tội lần đầu, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng với vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, vì khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) là hai điều khoản độc lập với nhau, người phạm tội thỏa mãn điều kiện ở khoản 2 BLHS 2015 thì Tòa án được quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng mà không cần có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ, quy định tại Điều 54 BLHS là quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, điều luật thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, ở khoản 1 Điều 54 BLHS cho phép Tòa án quyết định một mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà người phạm tội đang bị xét xử nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề, ở khoản 2 Điều 54 BLHS đây là quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) khi các nhà làm luật nhận thấy người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS, họ lại là người phạm tội lần đầu và họ tham gia trong vụ án đồng phạm nhưng với vai trò giúp sức, vai trò của họ trong vụ án không đáng kể, đơn giản và hành vi giúp sức ảnh hưởng không nhiều đến hậu quả của hành vi pham tội, nếu định khung hình phạt liền kề lại rất nặng, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vì vậy điều luật đã bổ sung thêm khoản 2 cho phép Tòa án được chuyển sang khung nhẹ hơn và không bắt buộc phải là khung liền kề. Chúng tôi cho rằng, Điều 54 BLHS được hiểu, khoản 1 thì người phạm tội chuyển sang khung liền kề nhẹ hơn và nếu có thêm tình tiết khoản 2 thì được chuyển sang các khung khác nhẹ hơn nữa, đây là cách hiểu đúng tinh thần của điều luật.
Thứ ba, Theo quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS thì Tòa án được phép áp dụng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề của điều luật đối với những người phạm tội lần đầu, trong vụ án đồng phạm với vai trò là người giúp sức nhưng có vai trò hạn chế trong vụ án. Tuy nhiên, như thế nào là “giúp sức với vai trò không đáng kể”, thì điều luật không quy định cũng như không có văn bản hướng dẫn nên việc áp dụng tình tiết nay mang tính chủ quan của Hội đồng xét xử, phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan, người tiến hành tố tụng dẫn đến việc không thống nhất giữa các địa phương.
Thứ tư, trường hợp người phạm tội có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng đồng thời cũng có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 BLHS, thì việc xem xét để áp dụng Điều 54 BLHS như thế nào.
Quan điểm thứ nhất, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng đồng thời có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì lấy số lượng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS trừ đi số lượng tình tiết tăng nặng tại Điều 52 BLHS, nếu còn từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên thì vẫn có thể xem xét áp dụng Điều 54 BLHS.
Quan điểm thứ hai cho rằng trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng nếu có đã tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì không áp dụng Điều 54 BLHS.
Quan điểm thứ ba cho rằng, trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng cũng có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì vẫn có thể xem xét áp dụng Điều 54 BLHS, không cần số lượng tình tiết giảm nhẹ hơn tình tiết tăng nặng là hai tình tiết.
Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn đối với trường mà người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, đồng thời có cả tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 52 BLHS thì có được áp dụng Điều 54 BLHS hay không, dẫn đến trong thực tiễn có nhiều cách hiểu và cách áp dụng khác nhau giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ, Điều 54 BLHS được áp dụng khi xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nếu áp dụng mức hình phạt trong khung hình phạt mà Tòa án đang xét xử đối với người phạm tội thì quá nặng đối với họ và khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì Tòa án có thể xem xét áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung đối với người phạm tội nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề, nếu hiểu theo quan điểm thứ 2 thì người phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được áp dụng Điều 54 sẽ không phù hợp và có thể gây bất lợi cho người phạm tội, bởi lẽ trước khi áp dụng Điều 54 BLHS Tòa án đã căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và thấy nếu quyết định hình phạt trong khung hình phạt đang xét xử thì quá nặng đối với người phạm tội nên Tòa án mới xem xét Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt mà khi xem xét Điều 54 lại thấy người phạm tội có tình tiết tăng nặng nên không áp dụng thì không hợp lý; nếu hiểu theo quan điểm thứ ba thì chỉ cần có tình tiết giảm nhẹ mà không cần xét có bao nhiêu tình tiết tăng nặng thì không đảm bảo mục đích của Điều 54 BLHS là vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy, Điều 54 BLHS cần được hiểu theo quan điểm thứ nhất (trên tinh thần của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo) khi người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng đồng thời có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì lấy số lượng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 trừ đi số lượng tình tiết tăng nặng tại Điều 52, nếu còn từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên thì có thể xem xét áp dụng Điều 54 BLHS thì vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời khích lệ người phạm tội để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
2. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
Qua nghiên cứu và xác định một số vấn đề bất cập, vướng mắc trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện, khắc phục như sau:
Thứ nhất, sửa đổi khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) như sau “Khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”,
Thứ hai, liên ngành tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất các vấn đề sau:
Một là, ban hành văn bản áp dụng khoản 1, 2 Điều 54 BLHS theo hướng khi Tòa án áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn của điều luật, nếu khung hình phạt đó có loại hình phạt khác nhẹ hơn thì Tòa án vẫn được áp dụng đối với người phạm tội, không bắt buộc phải là hình phạt cùng loại với hình phạt mà người phạm tội đang bị xét xử.
Hai là, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể như thế nào “là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” theo hướng người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể là người có vai trò không lớn trong vụ án đồng phạm, hành vi giúp sức đơn giản và hạn chế, gây thiệt hại không lớn hoặc nếu không có sự giúp sức đó thì hành vi phạm tội vẫn diễn ra.
Ba là, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS trong trường hợp người phạm tội có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng đồng thời cũng có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 BLHS, cụ thể “Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự”
Kết Luận
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một số vướng mắc của Bộ luật hình sự đối với trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025) đối với trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm.
Tài liệu tham khảo
- Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2025).
- Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.