Tài liệu tham luận Hội thảo Hội thảo “Cải cách hệ thống tư pháp hình sự – Kinh nghiệm Nhật Bản” – Quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam. Thẩm quyền không truy tố của Viện kiểm sát.
TS. GVC Lê Văn Hảo
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học kiểm sát
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân
Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định hệ thống VKSND gồm: VKSND tối cao; VKSND Cấp cao; VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là VKSND cấp tỉnh); VKSND cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là VKSND cấp huyện) và Viện kiểm sát Quân sự các cấp. Về tổ chức bộ máy VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp được Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định như sau:
– Tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; Các cục, vụ, viện và tương đương; Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác; Viện kiểm sát quân sự trung ương. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; công chức khác, viên chức và người lao động khác.
– Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (VKSND cấp cao được bố trí ở 03 khu vực gồm: VKSND Cấp cao tại Hà Nội; VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng và VKSND Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh)
Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Các viện và tương đương. VKSND cấp cao có Viện trưởng VKSND cấp cao, các Phó Viện trưởng VKSND cấp cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
– Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là VKSND cấp tỉnh) gồm 63 tỉnh, thành phố.
Tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Các phòng và tương đương. VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
– Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện).
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc. VKSND cấp huyện có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân cũng bao gồm Viện kiểm sát quân sự các cấp: Viện kiểm sát Quân sự Trung ương; Viện kiểm sát Quân sự quân khu và tương đương và Viện kiểm sát Quân sự khu vực.
– Theo quy định tại khoản 2, Điều 52 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Viện kiểm sát Quân sự Trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự Trung ương gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; Các phòng và tương đương. Viện kiểm sát quân sự trung ương có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
– Viện kiểm sát Quân sự Quân khu và tương đương là cấp kiểm sát thứ hai dưới Viện kiểm sát Quân sự Quân khu và cấp trên Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gồm có: Ủy ban kiểm sát; Các ban và bộ máy giúp việc. Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
– Viện kiểm sát Quân sự khu vực là cấp thấp nhất thuộc cơ cấu Viện kiểm sát quân sự. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự khu vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc. Viện kiểm sát quân sự khu vực có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát thực hiện hai chức năng gồm: “thực hành quyền công tố” và “Kiểm sát hoạt động tư pháp”.
– Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. VKSND thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội (1); Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật (2). Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
+ Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
+ Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
+ Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;
+ Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
+ Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;
+ Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
– Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. VKSND kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
+ Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
+ Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;
+ Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
– Về nhiệm vụ chung, “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Khoản 2, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014).
– Về nhiệm vụ cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (1); Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao (2); Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình (3).
3. Về thẩm quyền không truy tố của Viện kiểm sát
Về thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát (VKS) ở Việt Nam cũng có nhiều luồng quan điểm hướng đến việc có nên áp dụng nguyên tắc “tùy nghi truy tố” thay thế cho nguyên tắt “bắt buộc truy tố” trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Thể hiện quan điểm này, có nhiều nhà khoa học cho rằng sự thay đổi này là cần thiết và phù hợp để giải quyết các hạn chế mà nguyên tắc “bắt buộc truy tố” đang gặp phải trên thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự. Tác giả Đỗ Văn Đương (2011) cho rằng, việc ghi nhận trở lại các các quy định miễn tố từ Bộ luật hình sự năm 1988 có thể giúp “thực hiện yêu cầu kết hợp hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích công dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm” [1] Tác giải Đàm Quang Ngọc (2015) cũng cho rằng nguyên tắc bắt buộc truy tố có thể là rào cản để bảo đảm lợi ích của cộng đồng, bởi nguyên tắc này buộc Viện kiểm sát phải truy tố dù việc truy tố có thể phương hại đến lợi ích công[2].. Các tác giả Võ Minh Kỳ, Võ Hồng Phượng (2018) lại khẳng định “nguyên tắc tùy nghi truy tố và việc kiểm soát quyền lực công tố nhằm đóng góp tích cực cho nền dân chủ”[3].. Từ đó các tác giả chỉ ra một số kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới như: Hoa Kỳ, Đức, Nga, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc v.v…khi áp dụng quyền “tùy nghi truy tố” để tham khảo trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng pháp luật thì hoạt động truy tố của Viện kiểm sát là bắt buộc (không tùy nghi như Viện kiểm sát/Viện Công tố một số nước trên thế giới).
Theo quy định tại Điều 243, BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát phải thực hiện hoạt động truy tố bị can trước Tòa bằng Bản cáo trạng. Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án. Trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày. Trường hợp vụ án có bị can bị tạm giam thì trước khi hết thời hạn tạm giam 07 ngày thì Viện kiểm sát thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định việc tạm giam bị can khi nhận hồ sơ vụ án.
Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS Việt Nam, sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển đến, trong giai đoạn truy tố, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, Viện kiểm sát có các quyền sau đây:
– Trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung: Khi không đủ điều kiện truy tố bị can thì Viện kiểm sát trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung theo quy định tại (Điều 245 BLTTHS), khi thuộc một trong các trường hợp:
+ Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
+ Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác;
+ Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung phải ghi rõ vấn đề cần điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế.
Việc chuyển hồ sơ vụ án kèm theo kết luận điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát; việc giao, nhận, gửi thông báo kết quả điều tra bổ sung được thực hiện theo quy định tại Điều 232 và Điều 238 của BLTTHS.
– Giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án: Theo quy định tại Điều 246 BLTTHS, trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết như sau:
+ Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết;
+ Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.
– Tạm đình chỉ vụ án, theo quy định tại Điều 247 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố;
Thứ hai, khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật này;
Thứ ba, khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả.
Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do, căn cứ tạm đình chỉ vụ án, các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Khoản 2, Điều 132 BLTTHS quy định về “Văn bản tố tụng ghi rõ: Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; Căn cứ ban hành văn bản tố tụng; Nội dung của văn bản tố tụng; Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu”.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can thì tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
– Đình chỉ vụ án, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự. Cụ thể, “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. (Khoản 2 Điều 155 BLTTHS). Luật cũng quy định tám trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau: Không có sự việc phạm tội (1); Hành vi không cấu thành tội phạm (2); Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự (3); Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật (4); Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (5); Tội phạm đã được đại xá (6); Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác (7); Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố (8). (Điều 157 Bộ luật TTHS quy định).
Ngoài ra, Bộ luật hình sự hiện hành cũng quy định về hành vi “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” Đây là hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này (Điều 16, Bộ luật hình sự hiện hành).
Để đảm bảo các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội, Bộ luật hình sự cũng quy định rõ các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự gồm: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có công hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận hoặc người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Khoản 2 Điều 91 BLHS quy định các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật hình sự.
Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án thì cũng có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật./.
[1] Đỗ Văn Đương, Truy tố trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp – Kinh nghiệm CHLB Đức” do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Qũy Hợp tác quốc tế về Pháp luật CHLB Đức phối hợp tổ chức, Hà Nội 2011, trg. 8.;
[2] Đàm Quang Ngọc, Sự cần thiết áp dụng trùy nghi trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 10/2015, trg. 31-39.
[3] Võ Minh Ký, Võ Hồng Phượng, Quyền công tố trong nền dân chủ và nguyên tắc tùy nghi truy tố, Tạp chí khoa học pháp lý, số 09 (121)/2018, trg. 64.