Thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh trong giai đoạn điều tra – một số đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường phòng, chống bức cung, nhục hình
Hoàng Ngọc Anh
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và đề ra các giải pháp trong đấu tranh phòng, chống bức cung, nhục hình. Một trong những giải pháp được đưa ra và đã được luật hóa đó là việc tiến hành ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. Bài viết phân tích, chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án hình sự; từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm phòng, chống bức cung, nhục hình.
1. Quy định của pháp luật về ghi âm, ghi hình trong điều tra vụ án hình sự
Ngày 24/9/1982, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966, khẳng định sự thừa nhận và tôn trọng những quyền cơ bản của con người. Theo đó, Điều 7 Công ước này ghi nhận: “Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người…” và khoản 1 Điều 10 Công ước nhấn mạnh: “Những người bị tước tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm”.
Nội luật hóa các nội dung nói trên trong bảo vệ quyền con người, với vai trò là một thành viên tích cực của Công ước, khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 của Việt Nam khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Nội dung này tiếp tục được thể chế hóa trong một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, trong đó, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.”.
Khoản 2 Điều 14 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định cụ thể những hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
“Bức cung, dùng nhục hình và các hình thức tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hay bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Điểm e khoản 2 Điều 31 Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 07/7/2014 của Bộ Công an quy định về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân tiếp tục ghi nhận những việc Điều tra viên, cán bộ điều tra không được làm, trong đó: “Nghiêm cấm bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào”.
Có thể thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong đấu tranh phòng, chống bức cung, nhục hình ở Việt Nam là khá toàn diện và đầy đủ, đây là những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quy định cụ thể việc nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
Thực tế cho thấy, việc bức cung, dùng nhục hình dễ dẫn đến án oan sai, đẩy những người vô tội vào vòng lao lý, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; đồng thời, xâm phạm đến tính đúng đắn trong hoạt động tư pháp, làm giảm lòng tin của người dân vào công lý, vào các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng. Vì vậy, hậu quả mà nó gây ra là rất lớn nên cần có nhiều giải pháp tích cực để phòng, chống bức cung, dùng nhục hình. Một trong những giải pháp được đưa ra và đã được luật hóa là biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh sử dụng trong việc điều tra vụ án hình sự.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì việc ghi âm, ghi hình có âm thanh là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện hoặc là yêu cầu tùy nghi – không bắt buộc trong các trường hợp tương ứng, cụ thể:
Trường hợp bắt buộc phải thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh gồm:
Thứ nhất, là khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, là đối với việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015.
Trường hợp không bắt buộc phải ghi âm, ghi hình có âm thanh (mang tính tùy nghi), bao gồm:
Một là, việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác không phải là tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015.
Hai là, việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân[1] tại các địa điểm khác không phải là trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015.
Ba là, khi lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đương sự; đối chất; tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì có thể được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định tại các điều 146, 187, 188 và 189 BLTTHS năm 2015.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015, việc ghi âm, ghi hình có âm thanh được thực hiện trong quá trình điều tra vụ án hình sự là khá cụ thể. Việc thực hiện quy định về ghi âm, ghi hình có âm thanh còn được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (Thông tư liên tịch số 03/2018). Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18/3/2018[2].
Như vậy có thể thấy, việc sử dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án hình sự được đánh giá và được kỳ vọng sẽ là một trong những biện pháp hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống bức cung, dùng nhục hình. Với đặc thù về chủ thể của tội bức cung, tội dùng nhục hình là được thực hiện bởi những chủ thể đặc biệt, đó là những người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Trưởng trại giam giữ, trại cải tạo, công an xã, phường, hải quan, kiểm lâm,… Việc sử dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra sẽ giúp cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng được thực hiện một cách minh bạch, khách quan, đúng luật, từ đó ngăn ngừa, hạn chế tình trạng bức cung, dùng nhục hình. Có thể nói, đây được coi là một “bước tiến” trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động điều tra đối với các vụ án hình sự nói riêng, bởi thực tế tình trạng vi phạm pháp luật trong công tác bắt, giam giữ, điều tra, xử lý tội phạm, nhất là hiện tượng bức cung, dùng nhục hình vẫn xảy ra[3].
2. Một số hạn chế, bất cập
Việc sử dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra vụ án hình sự đã được ghi nhận khá đầy đủ, cụ thể trong BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 03/2018, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, gây khó khăn trong việc hiểu và áp dụng thống nhất khi giải quyết các vụ án hình sự. Cụ thể:
2.1. Quy định về chủ thể được yêu cầu áp dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì việc hỏi cung bị can hay việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác được ghi âm, ghi hình có âm thanh khi có yêu cầu của các chủ thể khác nhau theo quy định của luật chứ không phải là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, đối với hai trường hợp này luật lại có quy định thiếu thống nhất, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Cụ thể:
Khoản 6 Điều 185 BLTTHS năm 2015 quy định:
“… Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015 quy định:
“… Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của người đại diện, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
So sánh nội dung hai điều khoản này thì thấy có sự khác nhau, theo đó, tại khoản 6 Điều 185 BLTTHS năm 2015 quy định việc ghi âm, ghi hình có âm thanh khi khỏi cung bị can ở địa điểm khác sẽ được thực hiện khi có yêu cầu của một trong các chủ thể là bị can hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Có nghĩa là, biện pháp này chỉ được áp dụng khi có yêu cầu của một trong các chủ thể nêu trên.
Tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015, nhà làm luật thay từ “hoặc” giữa các chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh khi lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác bằng việc sử dụng dấu phẩy dẫn đến việc có thể có những cách hiểu khác nhau. Cụ thể, căn cứ nội dung điều khoản có luồng quan điểm cho rằng, cần áp dụng tương tự như quy định tại khoản 6 Điều 185 BLTTHS năm 2015, có nghĩa là, chỉ cần có một trong các chủ thể là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu là có thể thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình lấy lời khai. Tuy nhiên, cũng có luồng quan điểm cho rằng, căn cứ nội dung điều luật thì khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015 không dùng từ “hoặc” mà dùng dấu phẩy và vì vậy cần xác định là việc ghi âm, ghi hình có âm thanh tại địa điểm khác chỉ được thực hiện khi có đồng thời yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và của cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Tác giả cho rằng, về mặt bản chất pháp lý trong hai trường hợp này đều giống nhau, tức đây đều là người tham gia tố tụng và đều trong giai đoạn hỏi cung, lấy lời khai để củng cố chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, với việc sử dụng thuật ngữ khác nhau trong cách quy định đối với chủ thể có quyền yêu cầu thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh như phân tích ở trên là một hạn chế trong kỹ thuật lập pháp, gây cản trở, khó khăn trong áp dụng vào thực tiễn.
2.2. Quy định về chủ thể ra quyết định lựa chọn việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong từng trường hợp cụ thể có thể quyết định lựa chọn hình thức ghi hình có âm thanh hoặc ghi âm, tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 lại không quy định cụ thể chủ thể nào có quyền quyết định lựa chọn việc sử dụng hình thức nào trong quá trình điều tra.
Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2018 đưa ra khái niệm giải thích từ ngữ như sau: “Ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh hoặc hình ảnh có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can; lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội; lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đương sự; đối chất; tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”.
Mặc dù điều luật không đưa ra khái niệm riêng phân tách giữa ghi âm và ghi hình có âm thanh, nhưng về mặt nhận thức chung, căn cứ vào câu chữ của điều khoản chúng ta đều thấy rằng, ghi âm và ghi hình có âm thanh là hai hình thức hoàn toàn khác nhau. Việc lựa chọn sử dụng hình thức nào sẽ mang lại kết quả tương ứng khác nhau, theo đó, nếu việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội thì cho kết quả là bản dữ liệu ghi âm – tức chỉ có âm thanh mà không có hình ảnh. Còn nếu lựa chọn việc sử dụng hình thức là ghi hình có âm thanh thì kết quả thu được là dữ liệu chứa cả hình ảnh và âm thanh.
Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 quy định:
“Cán bộ hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội quyết định lựa chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh“.
Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định việc hỏi cung do Điều tra viên thực hiện; Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.
Điều 442 BLTTHS năm 2015 quy định việc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải do Điều tra viên, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Kiểm sát viên lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân trong trường hợp người này không thừa nhận hành vi phạm tội của pháp nhân, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.
Như vậy, về cơ bản việc hỏi cung hoặc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội do Điều tra viên thực hiện. Do đó, đây cũng chính là chủ thể có thẩm quyền quyết định lựa chọn việc sử dụng hình thức ghi âm hay ghi hình có âm thanh.
Quy định này về cơ bản tạo thuận lợi cho Điều tra viên trong tiến hành các hoạt động điều tra nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, đây cũng chính là điểm chưa phù hợp trong trường hợp ngay từ đầu Điều tra viên đã có chủ đích là sẽ thực hiện hành vi bức cung hoặc dùng nhục hình trong quá trình hỏi cung hay lấy lời khai. Cụ thể, theo quy định tại Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội dùng nhục hình thì hành vi khách quan của tội phạm này là người phạm tội sử dụng hành vi bạo lực vật chất hoặc có hành vi khác đối với những người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành hình phạt tù… gây ra cho họ những đau đớn về thể xác, ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm sinh lý của họ. Ví dụ như: người phạm tội có các hành vi tra tấn, đánh đập người bị giam giữ, bắt quỳ khi hỏi cung, bắt nhịn ăn…[4] Như vậy, trong trường hợp nếu người phạm tội thực hiện hành vi bắt quỳ khi hỏi cung, bắt nhịn ăn, nhịn uống hay có những hành vi khác hạ nhục nhân phẩm của người khác,… nhưng nếu việc sử dụng hình thức ghi âm khi hỏi cung tại phòng ghi âm thì cũng rất khó khăn trong việc phát hiện ra hành vi khách quan là dấu hiệu của tội dùng nhục hình trong trường hợp này. Và do vậy, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống bức cung, dùng nhục hình bị giảm sút, không đạt được kết quả như mong đợi của những nhà làm luật. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến một số vụ án oan, sai do bức cung, dùng nhục hình gây hoang mang dư luận xã hội ở nước ta trong những năm vừa qua[5].
2.3. Quy định về ghi âm, ghi hình trong trường hợp tiến hành hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại ngoài trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Theo quy định tại khoản 6 Điều 183 và khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015 thì việc hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại ngoài trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được ghi âm, ghi hình có âm thanh khi có yêu cầu của các chủ thể sau: bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy có nghĩa là, trong trường hợp này việc ghi âm hay ghi hình có âm thanh chỉ được tiến hành khi các chủ thể nêu trên có yêu cầu chứ không phải là bắt buộc như trong trường hợp hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại được thực hiện tại cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định cụ thể trong trường hợp nào thì yêu cầu của họ được chấp nhận còn trong trường hợp nào thì yêu cầu này không được chấp nhận dẫn đến việc áp dụng mang tính tùy nghi trong thực tiễn. Cụ thể, do không có quy định về các trường hợp cũng như căn cứ để chấp nhận yêu cầu được áp dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh khi hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của của pháp nhân tại địa điểm khác ngoài trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cho nên có trường hợp yêu cầu áp dụng việc ghi âm, ghi hình có âm thanh ngoài trụ sở cơ quan điều tra được chấp nhận nhưng lại có trường hợp không được chấp nhận, dẫn đến sự bất cập, thiếu thống nhất trong thực tiễn. Bên cạnh đó, điều luật cũng không quy định cụ thể chủ thể nào có thẩm quyền trong việc chấp nhận yêu cầu này, là cán bộ hỏi cung trực tiếp giống quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 hay là Thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc là chủ thể nào khác.
Khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 cũng không hướng dẫn về nội dung này mà chỉ ghi nhận trình tự, thủ tục ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong trường hợp này được thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch này. Đồng thời, cũng không có quy định cụ thể hướng dẫn về trình tự, thủ tục, biểu mẫu,…cần thực hiện khi những chủ thể có quyền thực hiện quyền yêu cầu này. Những tồn tại, hạn chế nêu trên dẫn đến khó khăn, lúng túng trong thực tiễn áp dụng. Thực tế cho thấy, hầu hết các bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại đều mong muốn quá trình hỏi cung, lấy lời khai được diễn ra công khai, minh bạch, đảm bảo đúng sự thật khách quan của vụ án, nên họ luôn mong muốn quá trình hỏi cung, lấy lời khai này được áp dụng việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Do đó, khả năng họ yêu cầu áp dụng các biện pháp này khi việc hỏi cung thực hiện tại địa điểm khác không phải là tại trụ sở cơ quan điều tra là rất cao. Tuy nhiên, do luật chưa có quy định cụ thể nên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng.
2.4. Về trường hợp hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong trường hợp việc hỏi cung đối với bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại được thực hiện ngoài trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì việc ghi âm, ghi hình có âm thanh được thực hiện khi có yêu cầu của các chủ thể gồm: bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại, cơ quan, người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 lại quy định:
“… Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì cán bộ hỏi cung, lấy lời khai thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý thì tiến hành làm việc, trường hợp họ không đồng ý thì không được hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì cán bộ hỏi cung, lấy lời khai thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý tiếp tục làm việc thì vẫn tiến hành hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội không đồng ý tiếp tục làm việc thì dừng buổi hỏi cung, lấy lời khai….”
Nội dung điều khoản này chỉ đề cập đến sự đồng ý hay không đồng ý đối với chủ thể là bị can và người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại. Đây rõ ràng là một thiếu sót, bởi lẽ, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng là một trong những chủ thể được yêu cầu áp dụng việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong trường hợp này. Tuy nhiên, khi không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoặc trong trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai mà thiết bị ghi âm, ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố thì họ lại không được lấy ý kiến về việc này là một bất cập cần được khắc phục.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Có thể nói, quy định về ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại là một bước tiến mới, khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết chống bức cung, dùng nhục hình. Để triển khai thực hiện có hiệu quả quy định về ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung và lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại một loạt các giải pháp đã được đặt ra, trong đó có việc ban hành Thông tư liên tịch số 03/2018. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Tác giả xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về vấn đề này như sau:
Thứ nhất, khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015, nhà làm luật cần bổ sung từ “hoặc” vào nội dung khoản 5 Điều 442 để bảo đảm thống nhất với quy định tại khoản 6 Điều 183, bảo đảm thống nhất trong kỹ thuật lập pháp trong toàn bộ nội dung của Bộ luật này.
Về cơ bản, tại khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 đã quy định:
“Trường hợp hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng…”
Tuy nhiên, đây là văn bản dưới luật, do đó, trong tương lai, để bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật và tính khoa học trong kỹ thuật lập pháp hình sự, cần sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 442 như sau:
“Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của người đại diện hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Thứ hai, để bảo đảm việc áp dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh thực sự phát huy giá trị trong thực tiễn, thực sự là biện pháp chống bức cung, nhục hình một cách hữu hiệu, theo tác giả không nên giao việc lựa chọn áp dụng một trong hai hình thức này cho cán bộ hỏi cung trực tiếp mà nên theo hướng có sự kiểm tra, giám sát chéo giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Theo đó, tác giả kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2018 thì nên quy định theo hướng, cùng với việc gửi quyết định khởi tố bị can[6], Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can, quyết định lựa chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Điều này nhằm tăng cường tính minh bạch, đảm bảo sự công tâm, vô tư, khách quan trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung, nhằm ngăn chặn việc cán bộ hỏi cung cố tình lựa chọn một trong hai biện pháp khi có ý định thực hiện những hành vi khách quan của tội bức cung, tội dùng nhục hình như phân tích ở trên.
Trong thời gian tới, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015, tác giả cho rằng chỉ nên ghi nhận một hình thức là ghi hình có âm thanh trong việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại là đủ mà không cần ghi nhận thêm hình thức ghi âm nữa[7] để đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn.
Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong trường hợp tiến hành hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại ngoài trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cụ thể, cần hướng dẫn cụ thể về căn cứ để yêu cầu ghi âm, ghi hình có âm thanh của bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, cơ quan, người tiến hành tố tụng được chấp nhận khi thực hiện việc hỏi cung, lấy lời khai ngoài trụ sở cơ quan điểm tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn, tránh việc áp dụng một cách tùy nghi, chủ quan. Đồng thời, cần hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ thục chấp nhận yêu cầu này cũng như biểu mẫu cụ thể đối với yêu cầu này, theo đó, yêu cầu này phải được lập thành văn bản hay bằng lời nói có ghi nhận vào biên bản hỏi cung?,…
Thứ tư, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2018, các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi, bổ sung nội dung khoản 3 Điều 5 để bảo đảm sự thống nhất về mặt chủ thể theo quy định của điều khoản này cũng như quy định của BLTTHS năm 2015. Cụ thể, nội dung điều khoản này cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì cán bộ hỏi cung, lấy lời khai thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, cơ quan, người tiến hành tố tụng có yêu cầu biết, nếu họ đồng ý thì tiến hành làm việc, trường hợp họ không đồng ý thì không được hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì cán bộ hỏi cung, lấy lời khai thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có yêu cầu biết, nếu họ đồng ý tiếp tục làm việc thì vẫn tiến hành hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội không đồng ý tiếp tục làm việc thì dừng buổi hỏi cung, lấy lời khai…“
Có thể nói, việc áp dụng biện pháp ghi âm, ghi hình có âm thanh chỉ là một trong số những giải pháp trong phòng, chống bức cung, dùng nhục hình. Tuy nhiên, để biện pháp này thực sự phát huy được hiệu quả trong thực tiễn thì cần tiếp tục được nghiên cứu, để bổ sung hoàn thiện./.
[1] Theo BLHS năm 2015 thì chỉ có pháp nhân thương mại mới là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, trong BLTTHS năm 2015 lại sử dụng thuật ngữ là pháp nhân. Tuy nhiên, cần hiểu pháp nhân trong BLTTHS năm 2015 chính là pháp nhân thương mại – chủ thể của tội phạm. Điều này cũng đảm bảo sự phù hợp với hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 03/2018.
[2] Xem Điều 10 Thông tư liên tịch số 03/2018.
[3] Hoàng Giang, Ghi âm, ghi hình khi hỏi cung có chấm dứt oan, sai, https://www.doisongphapluat.com/ghi-am-ghi-hinh-khi-hoi-cung-co-cham-dut-oan-sai-a222900.html, truy cập ngày 25/5/2022.
[4] Xem thêm: https://luathoangsa.vn/toi-dung-nhuc-hinh-dieu-373-nd59812.html
[5] Ngọc Minh, “Điểm danh” một số vụ oan sai do bức cung, nhục hình, https://baophapluat.vn/diem-danh-mot-so-vu-oan-sai-do-buc-cung-nhuc-hinh-post218095.html, truy cập ngày 25/5/2022.
[6] Xem thêm Điều 179 BLTTHS năm 2015.
[7] Xem thêm: Tâm Lụa, Ghi âm – ghi hình hoạt động hỏi cung: Thực hiện sao cho hiệu quả?, https://tuoitre.vn/ghi-am-ghi-hinh-hoat-dong-hoi-cung-thuc-hien-sao-cho-hieu-qua-20180318085327519.htm, truy cập ngày 25/5/2022.
Nguồn: Tạp chí Tòa án số 11/2022