Thực tiễn xử lý các vụ án liên quan đến Động vật hoang dã: khó khăn và thách thức
PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh
Ths. Võ Ngọc Khánh Linh
Phân hiệu Trường ĐH Kiểm sát
Tóm tắt
Sau 30 năm trở thành thành viên chính thức của Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), Việt Nam đã cơ bản “nội luật” hóa các quy định của Công ước CITES trong các lĩnh vực pháp luật. Tuy nhiên các vụ án liên quan đến động vật hoang dã bị điều tra, truy tố, xét xử vẫn gia tăng liên tục trong nhiều năm qua do các đối tượng phạm tội về động vật hoang dã rất đa dạng, phức tạp về hình thức, tính chất, quy mô và thủ đoạn phạm tội. Nội dung bài tham luận nêu kết quả phát hiện xử lý và tập trung phân tích những khó khăn và thách thức phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến động vật hoang dã thời gian qua và kiến nghị, giải pháp.
Từ khóa: động vật hoang dã, quy định pháp luật, giám định, định giá
Đặt vấn đề: Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm việc bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm nhưng thực tế cho thấy các cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử vẫn gặp phải không ít khó khăn và thách thức. Những khó khăn này không chỉ xuất phát từ tính chất tinh vi, thủ đoạn nguy hiểm, phức tạp của đối tượng phạm tội này mà còn từ những hạn chế, bất cập trong việc thực thi pháp luật. Việc xác định hành vi phạm tội, tổ chức giám định loài, định giá tài sản, xử lý vật chứng … và việc chưa thống nhất giữa các văn bản hướng dẫn pháp luật đã gây ra nhiều vướng mắc trong quá trình xử lý vụ án.
Vì vậy, bài nghiên cứu này tập trung phân tích những khó khăn, thách thức mà cơ quan có thẩm quyền gặp phải trong quá trình xử lý tội phạm liên quan đến ĐVHD. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học và thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam.
1. Kết quả phát hiện và xử lý các vụ án liên quan đến động vật hoang dã trong thời gian qua
Việt Nam là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao trên thế giới. Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động bảo vệ động vật hoang dã (ĐVHD), từ năm 1994, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của CITES với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán, vận chuyển bất hợp pháp các loài động vật, thực vật nguy cấp, quý, hiếm và mẫu vật của chúng trong hoạt động thương mại quốc tế. Đến nay, sau 30 năm, các quy định của Công ước CITES đã cơ bản được “nội luật” hóa trong các văn bản pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học… đồng thời, trong cả pháp luật xử lý vi phạm hành chính và hình sự[1]. Mặc dù, các quy định của pháp luật liên quan đến việc bảo vệ ĐVHD nói chung ngày càng hoàn thiện, trong đó Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, đầy đủ hơn giúp xử lý khách quan, toàn diện, đầy đủ các vụ án liên quan đến ĐVHD đã có những tiến bộ đáng kể trong phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn, thách thức nhất định cần tiếp tục được tháo gỡ, khắc phục.
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đã công bố cho thấy khái quát về tình hình tội phạm này (liên quan đến 02 điều luật là Điều 234 và Điều 244 của BLHS năm 2015) trong 06 năm, từ năm 2018 đến năm 2023 thể hiện[2]:
– Tổng số vụ án đã phát hiện, khởi tố: 1.504 vụ án/1.872 bị can. Trong đó
+ Năm 2018: 149 vụ án/189 bị can
+ Năm 2019: 201 vụ án/271 bị can
+ Năm 2020: 205 vụ án/277 bị can
+ Năm 2021: 245 vụ án/303 bị can
+ Năm 2022: 312 vụ án/389 bị can
+ Năm 2023: 392 vụ án/493 bị can
– Số vụ án và bị can trung bình trong các năm là: 251 vụ án/312 bị can
– Mức tăng trung bình về số vụ là 178,09% về số vụ; 181,88% về số bị can
– Tổng số vụ án đã truy tố: 1.024 vụ án/1.440 bị can. Trong đó:
+ Năm 2018: 100 vụ án/132 bị can
+ Năm 2019: 125 vụ án/198 bị can
+ Năm 2020: 147 vụ án/202 bị can
+ Năm 2021: 161 vụ án/228 bị can
+ Năm 2022: 223 vụ án/ 309 bị can
+ Năm 2023: 268 vụ án/ 371 bị can
– Tổng số vụ án đã xét xử: 985 vụ án/1.380 bị cáo. Trong đó:
+ Năm 2018: 97 vụ án/126 bị cáo
+ Năm 2019: 114 vụ án/169 bị cáo
+ Năm 2020: 138 vụ án/ 215 bị cáo
+ Năm 2021: 156 vụ án/211 bị cáo
+ Năm 2022: 127 vụ án/ 304 bị cáo
+ Năm 2023: 263 vụ án/ 355 bị cáo
– Tỷ lệ số vụ an/bị can được đưa ra xét xử so với số vụ án/bị can bị truy tố là: 68,1% đối với vụ án và 76,9% đối với bị can
– Tỷ số vụ án bị vị xử lý về tội vi phạm quy định về động vật hoang dã (Điều 234 BLHS năm 2015) với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244 BLHS năm 2015) đạt:
+ Số đã phát hiện khởi tố, điều tra: Điều 234 chiếm 3,80 %; Điều 244 chiếm 96,20 %
+ Số đã kết thúc điều tra, chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố ra trước Tòa án để xét xử: Điều 234 chiếm 2,90 %; Điều 244 chiếm 97,10 %
+ Số Tòa án đã xét xử: Điều 234 chiếm 2,90 %; Điều 244 chiếm 97,10 %
2. Một số thủ đoạn phạm tội và đặc điểm tội phạm nổi bật trong các vụ án liên quan đến động vật hoang dã thời gian qua đã phát hiện được
Qua nghiên cứu, tìm hiểu và rà soát các vụ án hình sự về ĐVHD, trong những năm qua cho thấy các đối tượng phạm tội về ĐVHD rất đa dạng, phức tạp về hình thức, tính chất, quy mô và thủ đoạn phạm tội và có thể chia làm 3 nhóm đối tượng phạm tội chính đó là: (1) Những đối tượng phạm tội nhỏ, lẻ, cố ý thực hiện tội phạm nhằm thỏa mãn hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cá nhân và gia đình; (2) những đối tượng phạm tội do không ý thức được động vật mà mình mua bán, vận chuyển, nuôi nhốt là động vật hoang dã quý, hiếm; (3) những đối tượng buôn bán lớn, thường dùng nhiều thủ đoạn tinh vi để thực hiện hành vi phạm tội và che giấu tội phạm[3]. Tương ứng với mỗi nhóm đối tượng phạm tội khác nhau này thường kéo theo cách thức phát hiện, điều tra thu thập chứng cứ làm rõ hành vi phạm tội của đối tượng cũng khác nhau..
Theo số liệu công bố của Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin (Cục 2) nay là Cục Thống kê tội phạm và chuyển đổi số của VKSND tối cao đã công bố[4] liên quan đến tội phạm về ĐVHD vào năm 2018, 2021, tội phạm liên quan đến ĐVHD có những đặc điểm sau:
– Xác định có hơn 40 loài và sản phẩm ĐVHD bị vận chuyển, buôn bán, nuôi nhốt, săn bắt bất hợp pháp, trong số đó là các loài nguy cấp, quý, hiếm bị đe doạ chiếm tỷ lệ lớn như: Tê tê 23,22% (62/267), ngà voi 14,23% (38/267), hổ 7,87 % (22/267), rùa biển 4,11% (11/267), sừng tê giác 3,75% (10/267), rắn hổ mang chúa 14,61% (39/267). Tổng cộng có 2.069 cá thể ĐVHD (sống, chết, đông lạnh) và 39.371 kg các loại sản phẩm ĐVHD bị phát hiện, bắt giữ.
– Hành vi buôn bán ĐVHD trái phép là hành vi bị khởi tố hình sự nhiều nhất với 43,56% (142/326), tiếp theo là hành vi vận chuyển với 29,75% (97/326), hành vi tàng trữ chiếm tỷ lệ cao thứ ba 9,59% (28/326), thấp nhất là hành vi nuôi nhốt chỉ chiếm 1,84% (6/326). Nếu xét theo tội danh khởi tố hình sự đối với các bị can liên quan đến ĐVHD thì phần lớn các bị can bị khởi tố về “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo Điều 244 BLHS năm 2015, chiếm 91,7% (299/326), “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” theo Điều 234 BLHS năm 2015 chỉ chiếm 8.3 % (27/326).
– Phân tích địa điểm phát hiện, bắt giữ, xử lý các vụ vi phạm về ĐVHD cho thấy, các vi phạm tập trung chính tại các thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh) hoặc địa bàn sát biên giới như: Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (tiếp giáp với Trung Quốc); Cửa khẩu Nậm Cắn thuộc huyện Kỳ Sơn và huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An (tiếp giáp với Lào), Cửa khẩu Cầu Treo, tỉnh Hà Tĩnh (nơi giao thương buôn bán các nước Lào – Thái Lan – Việt Nam).
– Về điểm xuất phát, phần lớn các vụ ĐVHD bị bắt giữ, khởi tố hình sự khai nhận có điểm xuất phát từ Châu Á, trong đó phần lớn là từ Việt Nam. Trong tổng số 14/267 vụ việc vi phạm về bảo vệ ĐVHD có ghi nhận điểm xuất phát, điểm xuất phát từ châu Á chiếm hơn 71% (10/14 vụ), còn lại là có điểm xuất phát từ châu Phi chiếm gần 29% (4/14 vụ). Trong tổng số 10 vụ việc vi phạm có điểm xuất phát từ châu Á thì xuất phát chủ yếu từ các nước Đông Nam Á, chiếm đến 90% (9/10 vụ), trong đó: Lào chiếm tỷ lệ lớn nhất 66,67% (6/9 vụ), Campuchia, Singapore và Malaysia mỗi quốc gia chỉ 1 vụ việc vi phạm.
– Số đối tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ ĐVHD chủ yếu là người trẻ tuổi ở độ tuổi lao động trung bình. Đáng lưu ý, các đối tượng trong độ tuổi từ 30 đến 35 tuổi phạm tội liên quan đến ĐVHD bị khởi tố hình sự chiếm tỷ lệ cao 27,05% (89/329), tiếp đến là độ tuổi từ 24 đến 29 tuổi chiếm 20,97% (68/329) trong tổng số đối tượng bị khởi tố hình sự. Phân bố độ tuổi của đối tượng phạm tội là Nữ giới cũng đáng chú ý khi có gần 40% (5/13) đối tượng phạm tội bị khởi tố hình sự có độ tuổi từ 54 đến 59 tuổi.
– Số bị cáo bị phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ lớn nhất 56,32% (156/277); tiếp theo là hình phạt tù cho hưởng án treo 41,52% (115/277), thấp nhất lần lượt là hình phạt phạt tiền chiếm 0,72% (2/277) và cải tạo không giam giữ chiếm 1,44% (4/277). Trong tổng số 156 bị cáo bị phạt tù có thời hạn thì số bị cáo nhận mức án từ từ 1 năm đến dưới 3 năm và từ 3 năm đến dưới 7 năm chiếm tỷ lệ cao nhất là 39,1% (61/ 156), số bị cáo bị tuyên hình phạt tù có thời hạn từ 7 năm đến dưới 10 năm chiếm tỷ lệ cao thứ hai là 12,82% (20/156), số bị cáo bị tuyên hình phạt tù có thời hạn từ dưới 12 tháng và từ 10 năm đến dưới 15 năm chiếm tỷ lệ thấp nhất là 4,49% (7/156).
– Có nhiều cơ quan tham gia vào công tác đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ ĐVHD tại Việt Nam, nhưng chủ yếu vẫn là một số cơ quan chuyên trách gồm: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Kiểm lâm, Hải quan và Bộ đội Biên phòng. Cụ thể, Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường là lực lượng chính trong Công an thực hiện việc bắt giữ, xử lý, và Kiểm lâm là lực lượng phối hợp tích cực với lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường trong xử lý tội phạm liên quan đến ĐVHD . Điều này là hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được pháp luật Việt Nam quy định. Bên cạnh đó, cơ quan Hải quan (Cục điều tra chống buôn lậu), Bộ đội Biên phòng và cơ quan khác (Cảnh sát giao thông, An ninh sân bay) cũng đóng góp quan trọng trong việc phát hiện, bắt giữ, xử lý đối với vụ/ đối tượng vi phạm liên quan đến ĐVHD tại Việt Nam.
– Phân tích theo loài cho thấy, các vụ vi phạm bắt giữ, khởi tố hình sự liên quan đến tê tê xảy ra phổ biến tại các thành phố lớn (TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Trong khi đó, các vụ phát hiện, bắt giữ, xử lý liên quan đến ngà voi, vảy tê tê thường tập trung nhiều hơn ở các thành phố lớn qua đường biển, đường hàng không hoặc dọc theo các cửa khẩu chính tiếp giáp với Trung Quốc.
– Về điểm đến, chỉ có 4/267 vụ việc vi phạm (chiếm 1,5%) khai nhận có điểm đến (Trung Quốc) để tiêu thụ (tê tê và tê giác). Lưu ý rằng, các đối tượng phạm tội liên quan đến ĐVHD bị phát hiện bắt giữ, khởi tố hình sự thường không khai báo nguồn gốc hàng hóa, điểm xuất phát và điểm đến.
3. Khó khăn và thách thức phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến động vật hoang dã thời gian qua và kiến nghị, giải pháp
3.1. Khó khăn, thách thức liên quan đến nhận thức quy định pháp luật
– Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP[5] đã hướng dẫn chi tiết những quy định của Điều 234 BLHS năm 2015 về “Tội vi phạm quy định về bảo vệ ĐVHD” và Điều 244 BLHS năm 2015 về “Tội vi phạm quy định về động vật nguy cấp”, thực hiện theo hướng dẫn của Nghị quyết có một số nội dung liên quan đến công tác giám định nhưng thực tiễn còn gặp phải khó khăn như:
+ Theo khoản 5 Điều 2, Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP, “bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống” là những bộ phận thực hiện các chức năng chuyên biệt của cơ thể động vật, ngay khi tách rời những bộ phận này khỏi cơ thể sống của động vật thì động vật đó chết (ví dụ: Đầu, tim, bộ da, bộ xương, buồng gan…). Định nghĩa trên của Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP đã nhấn mạnh ở “ngay lập tức”, tức là khi xảy ra hành vi tách rời những bộ phận có chức năng chuyên biệt ra khỏi cơ thể sống của động vật thì động vật đó chết ngay lập tức về mặt sinh học. Tuy nhiên, có hành vi nếu tước đi một hoặc một số bộ phận cơ thể của các loại động vật có chức năng “săn mồi” hoặc đặc trưng cơ thể, khi tách rời khỏi cơ thể sống của động vật thì chúng không chết ngay mà sẽ chết sau một khoảng thời gian. Thực tế, ngoài những trường hợp rất rõ ràng mà ai cũng có thể nhận biết được như những ví dụ mà Nghị quyết đưa ra, sẽ có những trường hợp khó xác định, những trường hợp này cơ quan chức năng lại phải trưng cầu giám định xem đó có phải là “bộ phận không thể tách rời sự sống không” và cơ quan giám định cũng khó đánh giá, trả lời được những bộ phận nào là bộ phận có thể tách rời sự sống và bộ phận nào là bộ phận không thể tách rời sự sống theo cách giải thích của Nghị quyết.
+ Tại khoản 2, Điều 3 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP có giải thích về “săn bắt vào thời gian bị cấm là săn bắt ĐVHD, động vật nguy cấp, quý, hiếm vào mùa sinh sản hoặc mùa di cư của chúng. Việc xác định mùa sinh sản, mùa di cư của từng loài theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.” Việc xác định tình tiết này thông qua nhận biết mùa sinh sản hoặc mùa di cư của các loài ĐVHD là hết sức khó khăn khi được trưng cầu giám định, cơ quan giám định cũng không thể trả lời chính xác cho cơ quan tố tụng đã trưng cầu về nội dung này.
+ Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP cũng quy định: “Đối với hành vi tàng trữ cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm có từ trước ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp tàng trữ cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm nhằm mục đích buôn bán, thu lợi bất chính.”. Thực tiễn có những trường hợp sau thời điểm ngày 01/01/2018, cơ quan chức năng kiểm tra bắt quả tang đối tượng tàng trữ số lượng lớn ngà voi, sừng tê giác đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, quá trình xác minh đối tượng khai là được tặng cho trước ngày 01/01/2018 mục đích để sử dụng, không nhằm mục đích buôn bán, thu lợi bất chính. Đối tượng khai địa chỉ người tặng cho không rõ ràng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền không có cơ sở để xác minh được đối tượng tặng cho, cũng như thời điểm đối tượng bắt đầu tàng trữ sản phẩm ĐVHD nên khó khăn trong đánh giá chứng cứ và xử lý.
– Một số điểm của khoản 1, khoản 2, Điều 244 BLHS năm 2015 có quy định về số lượng cá thể ĐVHD quý hiếm bị săn bắt, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép để định khung hình phạt như: Từ 03 cá thể đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 cá thể đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 cá thể đến 15 cá thể động vật lớp khác. Tuy nhiên, nhà làm luật chưa hướng dẫn cụ thể phương hướng xử lý trong trường hợp một vụ án bắt giữ được nhiều loài động vật có cả chim, thú, bò sát dẫn đến có nhiều loài khác nhau cùng nhóm IB, nhóm IIB hoặc Phụ lục I, II của Công ước CITES nhưng không thể cộng dồn các cá thể để xác định số lượng cá thể định khung hình phạt được.
– Điều 234 và Điều 244 BLHS năm 2015 việc định tội, định khung hình phạt căn cứ vào cá thể, bộ phận không thể tách rời sự sống, bộ phận cơ thể của các loài động vật hoang dã thuộc nhóm IB, IIB, loài động vật thông thường hoặc Phụ lục I, II, III của Công ước CITES nên những trường hợp các loài động vật lai giữa các nhóm với nhau thì gặp khó khăn trong việc định tội và định khung hình phạt.
3.2. Khó khăn, thách thức liên quan đến việc giám định
Cơ quan giám định phải thực hiện giám định toàn bộ mẫu vật thu giữ hay giám định ngẫu nhiên một số mẫu vật rồi đưa ra kết luận. Khi cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ một số lượng lớn mẫu vật nghi là bộ phận của ĐVHD, lúc này, việc giám định sẽ thực hiện theo quy trình giám định toàn bộ mẫu vật hoặc giám định ngẫu nhiên một vài mẫu vật rồi đưa ra kết luận tổng thể. Nếu tiến hành giám định toàn bộ vật chứng thu giữ thì sẽ mất rất nhiều thời gian và kinh phí giám định lớn. Trong trường hợp tiến hành giám định ngẫu nhiên một số mẫu vật cùng loại rồi đưa ra kết luận tổng thể về toàn bộ mẫu vật thu giữ thì cần có một quy trình tổ chức lấy mẫu sao cho đảm bảo tính chính xác, khách quan đối với kết quả giám định, đồng thời đảm bảo để đối tượng bị buộc tội và người bào chữa phải thừa nhận sự chính xác của kết quả giám định. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục và quy trình chuẩn của việc lấy mẫu giám định đối với vật chứng là ĐVHD. Ví dụ: Khi cơ quan chức năng phát hiện một xe Container vận chuyển trái phép rất nhiều cá thể và bộ phận cơ thể của các loài động vật nghi là động vật hoang dã. Với số lượng vật chứng quá lớn như vậy nếu không có một quy trình lấy mẫu để trưng cầu giám định thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ lúng túng trong việc lựa chọn giám định toàn bộ mẫu vật trong xe hay giám định lựa chọn ngẫu nhiên một số lượng mẫu cụ thể.
Khi thu giữ được vật chứng là ĐVHD ban đầu cơ quan tiến hành tố tụng sẽ trưng cầu giám định, trên thực tế nhiều trường hợp trưng cầu giám định để giám định viên trực tiếp thực hiện giám định trên mẫu vật thu giữ được, nhưng cũng có trường hợp việc giám định được thực hiện thông qua hình ảnh do cơ quan tố tụng gửi đến cơ quan giám định. Việc giám định vật chứng trực tiếp giúp cho cơ quan giám định có thể nhận định chính xác hơn về tính chất, loài, số lượng định cư, có thuộc ĐVHD hay không. Tuy nhiên, đối với một số mẫu vật là thi thể hoặc bộ phận của ĐVHD, việc vận chuyển và bảo quản để đưa đến nơi giám định cũng rất khó khăn. Nhiều trường hợp mẫu vật bị phân hủy trong quá trình vận chuyển. Do đó, việc giám định thông qua hình ảnh cũng là một giải pháp giám định nên được xem xét, nhưng cần phải đảm bảo việc loại trừ những trường đối tượng phạm tội làm giả các sản phẩm, cá thể động vật. Nhưng hiện nay về quy trình về giám định trong với vật chứng là ĐVHD, sản phẩm, bộ phận từ ĐVHD cũng chưa có văn bản pháp luật quy định một cách đầy đủ, cụ thể.
Hiện nay, việc chi trả kinh phí để bảo quản vật chứng, và đặc biệt đối với kinh phí giám định các vụ án mà đối tượng tác động là ĐVHD (một số vụ án với số tượng tang vật lớn thì chi phí giám định thường là rất cao) đều chưa có hướng dẫn cụ thể. Một số quan điểm cho rằng, kinh phí này do các cơ quan tiến hành tố tụng chi trả, quan điểm khác cho rằng, số tiền này sẽ được khấu trừ vào hình phạt tiền áp dụng đối với bị can.
Kết quả giám định loài ĐVHD là căn cứ quan trọng để xác định đối tượng có vi phạm quy định bảo vệ ĐVHD hay không, cũng như xác định đúng tội danh các đối tượng đã phạm tội. Tuy nhiên, Điều 206 BLTTHS không quy định mẫu vật có nguồn gốc từ động vật nguy cấp, quý, hiếm là trường hợp bắt buộc phải giám định; từ đó cũng không quy định thời hạn kết luận giám định đối với loại mẫu vật này tại Điều 208 BLTTHS. Hiện nay, việc giám định mẫu vật trong các vụ án liên quan đến động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm đang thực hiện theo quy định tại Điều 31 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP[6]. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền xử lý những vụ án liên quan đến các tội vi phạm quy định về bảo vệ ĐVHD, động vật nguy cấp, quý, hiếm gặp khó khăn về thời hạn khởi tố, điều tra trong quá trình giải quyết vụ án do không có kết quả giám định kịp thời.
Việc cơ quan giám định không xác định được nguồn gốc của động vật là từ tự nhiên hay nuôi sinh sản, sinh trưởng, trồng, cấy nhân tạo. Trong thực tế, không giám định được động vật có nguồn gốc tự nhiên hay sinh sản do gây nuôi sinh trưởng trong nhiều trường hợp vượt khỏi giới hạn về kỹ thuật hoặc nghiệp vụ của giám định viên trong điều kiện nghiên cứu chưa được hiện đại, đầy đủ như hiện nay. Điều này gây nên khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án vì nguồn gốc động vật là một tình tiết để căn cứ xác định tội danh. Do vậy, cần đầu tư cho công tác giám định những trang thiết bị và phương tiện để xác định chính xác đối tượng trong trường hợp này.
3.3. Khó khăn, thách thức liên quan đến việc định giá vật chứng là cá thể, bộ phận, sản phẩm động vật hoang dã
Pháp luật hiện hành đã có nhiều văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục định giá vật chứng hoặc tài sản trong đó có cả việc định giá đối với cá thể, bộ phận, sản phẩm động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm không được phép giao dịch trên thị trường như: Nghị định số 30/2018/NĐ-CP[7]; Thông tư số 43/2018/NĐ-CP. Nhưng trên thực tế vẫn có trường hợp, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự không kết luận và xác định giá trị của vật chứng thu giữ để xem xét trách nhiệm hình sự, giải quyết vụ án với lý do đây là hàng cấm nên không có giá để so sánh, đối chiếu và trên thị trường không có giao dịch chính thức, hợp pháp để tham khảo giá làm cơ sở kết luận.
Bên cạnh đó, việc định giá của các Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự khác nhau đối với cùng một loại vật chứng là động vật hoang dã cũng rất khác nhau mặc dù ở cùng một thời điểm. Ví dụ như cùng về định giá cá ngựa khô: Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2023/HS-ST ngày 21/7/2023 của TAND huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội ghi nhận: Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự có kết luận định giá số 07/KL-HDDGTS ngày 19/01/2023 xác định 10kg cá ngựa Hippocampus Spinosisstmus có giá 240 triệu đồng (tương đương 24 triệu đồng/kg). Trong khi đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2023/HS-ST ngày 25/4/2023 của TAND huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ghi nhận: Kết luận định giá tài sản số 67 ngày 08/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Trị giá 14,5 kg các cá thể cá ngựa Hippocampus barbouri là 210.127.177 đồng (tương đương gần 14,5 triệu đồng/kg).
3.4. Khó khăn, thách thức liên quan đến việc thu thập, bảo quản, xử lý vật chứng và tài sản liên quan
Đối với các sản phẩm của ĐVHD thì khi thu giữ phải được niêm phong để tiến hành giám định theo phương pháp hình thái học (đối với mẫu vật sống, còn nguyên hình dạng) hoặc phân tích bằng kỹ thuật phân tử – ADN (đối với mẫu vật chết hoặc bộ phận, dẫn xuất) nhằm xác định đúng loài, chủng loại để làm căn cứ xử lý. Tuy nhiên, trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo quản, lưu giữ sản phẩm này vì trong nhiều trường hợp việc bảo quản, lưu giữ cần được thực hiện trong điều kiện đặc biệt với những thiết bị lưu trữ chuyên biệt mà những thiết bị này không phải cơ quan tiến hành tố tụng nào cũng có. Bên cạnh đó, đối với những loài không có ở Việt Nam, chỉ có ở nước ngoài thì rất khó khăn trong công tác thu thập mẫu để so sánh, đối chiếu.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án về ĐVHD là phải bảo vệ được tang vật, vật chứng của vụ án nhằm mục đích tái thả về thiên nhiên những cá thể còn sống bảo vệ môi trường thiên nhiên. Do vậy, việc xử lý vật chứng của các vụ án hình sự về ĐVHD không dễ như các vụ án hình sự khác, vì động vật sống, bộ phận và các sản phẩm đòi hỏi có biện pháp chăm sóc bảo quản khác với các loại hàng hóa khác bởi nếu không có phương pháp chăm sóc cẩn thận sẽ làm cho chúng chết trong quá trình nuôi nhốt. Tuy vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải đảm bảo các yêu cầu về thời gian, trình tự thủ tục tố tụng đối với việc xử lý vật chứng, giám định lại, giám định bổ sung nếu trường hợp đủ căn cứ theo quy định của BLTTHS năm 2015. Hiện nay, khi xét xử các vụ án liên quan đến động vật hoang dã, quý, hiếm, Tòa án căn cứ vào quy định của Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP để xử lý vật chứng. Theo đó, đối với vật chứng là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm còn sống, về cơ bản đều được giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành trả về tự nhiên hoặc giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia. Trung tâm cứu hộ ĐVHD hoặc Cơ quan kiểm lâm sẽ tiếp nhận nuôi nhốt các loại động vật sống, tuy nhiên chi phí nuôi nhốt, chăm sóc rất cao. Trong khi, kinh phí nhà nước cấp cho công tác này còn hạn chế, dẫn đến nhiều trường hợp, đơn vị cứu hộ đã từ chối tiếp nhận ĐVHD.
– Về thời điểm xử lý vật chứng, theo quy định tại Điều 7, Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: Vật chứng là ĐVHD còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan chuyên ngành để thả về tự nhiên… Đối với vật chứng là cá thể động vật chết thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy… Do đó, hiện nay trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành xử lý vật chứng ngay sau khi có kết luận giám định (như thực hiện trả về tự nhiên đối với động vật sống, đối với những cá thể chết thì tiến hành tiêu hủy…). Tuy nhiên, trong một số vụ án hình sự, kể từ khi tạm giữ vật chứng đến khi có kết quả giám định, để có thể xử lý vật chứng vẫn là một khoảng thời gian dài do ảnh hưởng của những chủ thể tố tụng, trong thực tế việc bảo quản vẫn rất tốn kém chi phí, có trường hợp số động vật sống khi thu giữ đến khi có kết quả giám định tỷ lệ còn sống là rất thấp để có thể tái thả về môi trường tự nhiên.
– Đối với vật chứng là cá thể động vật đã chết hoặc sản phẩm của động vật, thì Nghị quyết số05/2018/NQ-HĐTP chưa quy định cụ thể trường hợp nào phải tiêu hủy, trường hợp nào giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý vật chứng nên đôi khi việc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng không thống nhất. Ví dụ: có cơ quan thì cho rằng cần phải giao cho bảo tàng để trưng bày nhưng cơ quan khác thì cho rằng cần phải tuyên tịch thu, tiêu hủy.
3.5. Khó khăn, thách thức khác
Nhiều vụ án, đặc biệt là những vụ án buôn bán ĐVHD có yếu tố nước ngoài hoặc sản phẩm ĐVHD cần có các thủ tục tương trợ tư pháp mới hỗ trợ được việc điều tra, truy tố hoặc buộc tội các chủ thể phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng ở các địa phương bắt buộc phải gửi yêu cầu tương trợ tư pháp cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan đầu mối. Tuy nhiên, kết quả của tương trợ tư pháp nhận lại thường chậm, mất rất nhiều thời gian hoặc trong nhiều trường hợp không nhận được phản hồi từ nước bạn, một số trường hợp thuộc diện giữa Việt Nam và quốc gia bạn chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc không nằm trong danh mục các quốc gia có quan hệ ngoại giao, có đi có lại thì vấn đề này còn gặp khó khăn hơn nên đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc tạm đỉnh chỉ giải quyết vụ án, chờ kết quả tương trợ tư pháp do thời hạn điều tra đã hết hoặc trong một số trường hợp không có kết quả coi như việc giải quyết vụ án đi vào bế tắc.
4. Nguyên nhân cơ bản của những khó khăn, thách thức
Việc buôn bán ĐVHD qua mạng diễn ra phổ biến, nhưng chưa có cơ chế giám sát và xử lý hiệu quả. “Tại Việt Nam, theo một nghiên cứu nhanh của Tổ chức sáng kiến toàn cầu về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Global Initiative Against Transnational Organized Crime – GITOC), từ tháng 7 đến tháng 10/2021, nhóm nghiên cứu đã phát hiện 930 quảng cáo online về ĐVHD, tất cả đều bằng tiếng Việt, trong đó có 582 quảng cáo ĐVHD làm dược phẩm, 328 quảng cáo về trang sức ĐVHD và 20 quảng cáo bán ĐVHD sống (chủ yếu là vẹt xám Châu Phi). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quảng cáo online các sản phẩm có nguồn gốc từ tê tê (bao gồm cả vảy) là phổ biến nhất, với 328 quảng cáo, tiếp theo là các sản phẩm làm từ các bộ phận của hổ (319 quảng cáo), các bộ phận của gấu (179 quảng cáo), ngà voi và các sản phẩm từ voi (78 quảng cáo) và sừng tê giác (8 quảng cáo). Đáng chú ý, có đến 625 đầu mối vừa bán hàng trực tuyến vừa mở bán tại các shop truyền thống và phần lớp các shop này ở 03 thành phố lớn là Hà Nội (324 shop), Thành phố Hồ Chí Minh (223 shop) và Hải Phòng (44 shop). Trong đó, Facebook và Zalo là hai nền tảng quảng cáo phổ biến nhất”[8].
Cơ chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc phòng, chống và xử lý vụ án có liên quan đến ĐVHD chưa hiệu quả. Sự chủ động phối hợp giữa kiểm lâm, hải quan, công an, tòa án và viện kiểm sát trong việc tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác còn nhiều vướng mắc, chưa kịp thời. Chưa có sự chủ động phối hợp trong công tác trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu… đòi hỏi cần có sự chỉ đạo của liên ngành từ trung ương đến địa phương để áp dụng thống nhất, đồng bộ những quy định của pháp luật liên quan đến xử lý các vụ án có liên quan đến ĐVHD.
Nhu cầu tiêu thụ và lợi nhuận thu được từ việc buôn bán, săn bắt, vận chuyển động vật hoang dã lớn, trong khi nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao nên người dân vẫn tiếp tay cho hoạt động săn bắt, buôn bán do quan niệm phong tục dân Việt Nam từ trước đến nay vẫn có thói quen sử dụng các sản phẩm từ ĐVHD để làm thực phẩm, để chế tạo thuốc chữa bệnh theo truyền thống dân gian (cao hổ, vảy tê tê, sừng tê giác…) hoặc dùng để trang trí trong gia đình, làm trang sức (ngà voi, rùa biển…). Chính vì nhu cầu của người tiêu dùng cao, sẵn sàng mua với giá đắt nên đã thôi thúc các đối tượng săn bắt, giết mổ, tiêu thụ ĐVHD để bán thu lợi nhuận cao. Ngày càng nhiều nhà hàng, quán ăn mở ra buôn bán, chế biến ĐVHD bất chấp việc lây truyền dịch bệnh, gây ô nhiễm môi trường nhưng lực lượng chức năng chưa phát hiện xử lý kịp thời và tương xứng với thiệt hại đã gây ra.
Một số nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam thể hiện Việt Nam vừa là điểm xuất phát, vừa là nơi trung chuyển và vừa là điểm tiêu thụ của chuỗi cung ứng ĐVHD thế giới. Các báo cáo đã chỉ ra rằng các đối tượng người Việt Nam và người nước ngoài lợi dụng hoạt động giao thương quốc tế, cấu kết với nhau hình thành các đường dây buôn bán ĐVHD xuyên quốc gia.Tội phạm có tổ chức và xuyên quốc gia. Địa bàn hoạt động của tội phạm rộng, xuyên quốc gia.
5. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục khó khăn và vượt qua thách thức trong giải quyết các vụ án về động vật hoang dã
– Kiến nghị sửa đổi, bổ sung thống nhất quy định của pháp luật và bổ sung cơ chế để khắc phục những khó khăn, thách thức như trên đã trình bày.
– Quy định rõ hơn việc xử lý đối với những trường hợp thu giữ được nhiều loài động vật có cả lớp thú, lớp chim, lớp bò sát và lớp khác thuộc Danh mục nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước CITES, nếu chưa đủ số lượng theo từng lớp quy định tại Điều 244 BLHS thì cộng dồn tất cả các cá thể ĐVHD lại, sau đó quy đổi về một lớp hoặc loài theo hướng có lợi cho người phạm tội để xử lý hình sự, như vậy mới đảm bảo tính công bằng, khách quan trong chính sách xử lý hình sự.
– Ban hành quy định giúp hướng dẫn quy trình thu mẫu, bảo quản mẫu vật để giám định động vật hoang dã. Nghiên cứu bổ sung giám định ĐVHD là một trường hợp bắt buộc giám định trong BLTTHS. Đồng thời, cần thành lập thêm các trung tâm giám định về ĐVHD tại các địa phương hoặc vùng nhằm đảm bảo thuận tiện cho việc gửi mẫu và trả kết quả giám định kịp thời. Quy định rõ cơ quan tham gia giám định công và cơ quan tham gia giám định tư, tránh tình trạng mỗi nơi thực hiện một cách, hay phải giám định đi, giám định lại như hiện nay.
– Tăng cường ký kết Quy chế phối hợp liên ngành trong việc cung cấp, trao đổi thông tin, tiếp nận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo đó, các cơ quan ký Quy chế cần phối hợp thực hiện tốt việc tiếp nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm ĐVHD, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc trách nhiệm của đơn vị mình, kịp thời trao đổi, phối hợp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong việc phân loại, xử lý các loại tố giác, tin báo tội phạm về ĐVHD, động vật nguy cấp, quý, hiếm. Đối với những tin báo tội phạm về ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm mang tính chất phức tạp hoặc nhận thức, đánh giá của Điều tra viên và Kiểm sát viên còn chưa thống nhất thì đưa ra họp liên ngành Công an – Viện kiểm sát – Tòa án để thống nhất quan điểm giải quyết.
– Tăng cường trao đổi thông tin, tổ chức họp liên ngành để trao đổi quan điểm đối với những vụ án phức tạp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án để phối hợp điều tra, truy tố, xét xử.
– Quy định pháp luật để kiểm soát chặt chẽ các nền tảng trực tuyến, nâng cao năng thực phát hiện, thu giữ, bảo quản, khai thác, sử dụng chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử khi giải quyết các vụ án về ĐVHD. Ban hành các quy định rõ ràng về trách nhiệm của các nền tảng thương mại điện tử và mạng xã hội để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi buôn bán ĐVHD trong nước và có yếu tố quốc tế.
– Tăng cường hợp tác quốc tế, triển khai ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, đặc biệt đối với các quốc gia là điểm nguồn và điểm đích của hành vi buôn bán trái phép vảy tê tê. Xây dựng cơ chế điều tra chung giữa các quốc gia liên quan đến hành vi buôn bán, vận chuyển trái phép vảy tê tê, đặc biệt là cơ chế chia sẻ thông tin tình báo đối với những đường dây tội phạm, có tổ chức, xuyên quốc gia liên quan đến vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoang dã.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng việc xử lý các vụ án liên quan đến tội phạm ĐVHD vẫn còn gặp nhiều rào cản từ cả phương diện pháp lý lẫn thực tiễn áp dụng. Một số khó khăn chính có thể kể đến bao gồm: các hành vi vi phạm liên quan đến ĐVHD thường đan xen giữa nhiều tội danh gây khó khăn cho Cơ quan có thẩm quyền trong việc định tội và truy tố đúng người, đúng hành vi; Việc xác định chính xác loài động vật bị xâm hại để áp dụng khung hình phạt chính xác khi xử lý vụ án cũng là một thách thức lớn; Những quy định liên quan đến giám định, định giá tài sản hiện nay còn hạn chế về chuyên môn, thời gian thực hiện kéo dài, trong khi số lượng vụ việc cần xử lý ngày càng nhiều; Các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ ĐVHD còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều này gây ra nhiều cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến tình trạng áp dụng luật chưa thống nhất trên phạm vi cả nước.
Những tồn tại này không chỉ làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật mà còn tạo ra kẽ hở để các đối tượng lợi dụng. Do đó, cần có những giải pháp đồng bộ như hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ thực thi pháp luật, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ án, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để kiểm soát tốt hơn loại tội phạm này./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghị quyết Số 05/2018/NQ-HĐTP/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- Nghị định số 06/2019/NĐ – CP ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp
- Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự
- Thông tư số 43/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 30/2018/ NĐ – CP ngày 07 tháng 3 năm 2018 của chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự
- Kim Lê Thanh (2024), Những “lỗ hổng” pháp luật về xử lý tội phạm liên quan đến động vật hoang dã, https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/nhung-lo-hong-phap-luat-ve-xu-ly-toi-pham-lien-quan-den-dong-vat-hoang-da-161608.html, Báo Bảo vệ pháp luật; truy cập ngày 21/7/2024
- PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh, Thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án về động vật hoang dã; động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm một số đề xuất, kiến nghị – Hội thảo Ứng dụng số hóa trong giải quyết vụ án hình sự liên quan đến động vật hoang dã do Tạp chí Kiểm sát VKSND tối cao tổ chức tại Hà Nam ngày 15/6/2024
- TS. Nguyễn Đức Hạnh, Báo cáo tóm tắt kết quả rà soát các vụ án về động vật hoang dã của Viện kiểm sát nhân dân năm 2016 do dự án USAID GIG hỗ trợ
- Đỗ Nguyệt Quế, Thống kê của VKSND tối cao về kết quả xử lý vụ việc liên quan đến động vật hoang dã ở Việt Nam: Hiệu quả qua con số, Hội thảo tại Gia Lai, ngày 30/3/2022
- Tài liệu tập huấn của WCS, chuyên đề “Tội phạm về động vật hoang dã & kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án vi phạm quy định về động vật hoang dã”, tr.15-16
[1] Kim Lê Thanh (2024), Những “lỗ hổng” pháp luật về xử lý tội phạm liên quan đến động vật hoang dã, https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/nhung-lo-hong-phap-luat-ve-xu-ly-toi-pham-lien-quan-den-dong-vat-hoang-da-161608.html, Báo Bảo vệ pháp luật; truy cập ngày 21/7/2024
[2] PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh, Thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án về động vật hoang dã; động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm một số đề xuất, kiến nghị – Hội thảo Ứng dụng số hóa trong giải quyết vụ án hình sự liên quan đến động vật hoang dã do Tạp chí Kiểm sát VKSND tối cao tổ chức tại Hà Nam ngày 15/6/2024
[3] Xem: TS. Nguyễn Đức Hạnh, Báo cáo tóm tắt kết quả rà soát các vụ án về động vật hoang dã của Viện kiểm sát nhân dân năm 2016 do dự án USAID GIG hỗ trợ
[4] Đỗ Nguyệt Quế, Thống kê của VKSND tối cao về kết quả xử lý vụ việc liên quan đến động vật hoang dã ở Việt Nam: Hiệu quả qua con số, Hội thảo tại Gia Lai, ngày 30/3/2022
[5] Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
[6] Nghị định số 06/2019/NĐ – CP ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp
[7] Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự
[8] Tài liệu tập huấn của WCS, chuyên đề “Tội phạm về động vật hoang dã & kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án vi phạm quy định về động vật hoang dã”, tr.15-16