Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ths. Phan Thị Thanh – Giảng viên Khoa Quan hệ quốc tế,
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí Minh
Trên thế giới cho đến nay đã tồn tại 04 kiểu nhà nước khác nhau gồm: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và Nhà nước vô sản (Nhà nước XHCN). Tuỳ theo đặc điểm chính trị và lãnh thổ khác nhau theo tiến trình lịch sử, các quốc gia đã lựa chọn các chính thể chính trị không giống nhau, nhưng đều tựu trung lại theo hai hình thức chính thể gồm: (1) Chính thể quân chủ và (2) chính thể cộng hòa. Tuy nhiên, trong chính thể cộng hòa lại bao gồm: Cộng hoà Tổng thống, Cộng hòa đại nghị, Cộng hòa lưỡng hệ (pha trộn giữa Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa đại nghị, Cộng hòa Hồi giáo và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ngoài ra còn tồn tại các nhóm tổ chức chính trị – xã hội và lợi ích trong nhà nước. Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, đó là Nhà nước kiểu mới, đại diện cho quốc gia, dân tộc, khởi đầu cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, có nhiều cơ quan, thiết chế tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước được tổ chức thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nước trong hệ thống các cơ quan Tư pháp được ghi nhận và quy định trong Hiến pháp, VKSND thực hiện chức năng “thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và có nhiệm vụ “bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.[1]
Trong giai đoạn hiện nay, nhằm phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Hiến pháp 2013 khẳng định rõ: “Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[2], củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đối với toàn bộ hoạt động nhà nước. Đây là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước chủ yếu ở Việt Nam, chính vì vậy đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ mà trước hết phải thiết kế lại tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và hoàn thiện các thiết chế để tăng cường hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, kiện toàn các cơ quan và các thiết chế giám sát trong đó có VKSND.
Có thể nói rằng, VKSND là một thiết chế đặc biệt trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, vì hoạt động của VKSND là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước độc lập, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù cho phép nó thực hiện chức năng kiểm sát hiệu quả. Hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) không trực tiếp can thiệp vào quá trình tổ chức và hoạt động trong quá trình thực hiện chức năng của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước, mà nó thực hiện hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của một số cơ quan trong bộ máy Nhà nước như: Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; Toà án; cơ quan Thi hành án v.v…nhằm bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Toà án đúng pháp luật, bảo đảm giữ vững nguyên tắc pháp chế XHCN, phòng chống oan sai, không bỏ lọt tội phạm và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đây là sự khác biệt với các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng và thanh tra kiểm soát của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. VKSND khi phát hiện vi phạm pháp luật thuộc thầm quyền xử lý, Viện kiểm sát thì không trực tiếp sử dụng quyền lực của mình để loại trừ các vi phạm đó mà sử dụng quyền kháng nghị, quyền kiến nghị và quyền yêu cầu khắc phục vi phạm hoặc chuyển đến Toà án cấp trên để xem xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị theo thủ tục tố tụng cao hơn (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) theo đúng trình tự và thời hạn được pháp luật quy định.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của VKSND là cơ quan đặc thù trong bộ máy Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà trước kia, nay là nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước từ Trung ương xuống địa phương và thực hiện quyền công tố tại Tòa án. Mặc dù tiền thân của VKSND là Viện Công tố, nhưng xét về vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay so với Viện Công tố trước đây thì chức năng của VKSND được pháp luật quy định mở rộng hơn rất nhiều. Nếu như trước đây, Viện Công tố chỉ thực hiện quyền công tố trước tòa, thì hiện nay VKSND ngoài chức năng giữ nguyên là thực hành quyền công tố trước Tòa án còn thực hiện chức năng kiểm sát chung (giai đoạn 1960 – 1992), tức là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân[3]. Chức năng này lần đầu tiên được quy định tại Điều 105, Hiến pháp 1959 và được thể chế hoá trong các quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 1960 và nhiều văn bản luật tố tụng khác.
Theo quy định của Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức VKSND năm 1981, chức năng của VKSND tiếp tục được quy định rõ hơn, đó là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất[4] , quy định rõ hơn về tổ chức và hoạt động của VKSND theo những nguyên tắc chung của bộ máy nhà nước, đặc biệt là VKSND được tổ chức và hoạt động theo hai nguyên tắc đặc thù là: (1) Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành và nguyên tắc Viện kiểm sát hoạt động độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở địa phương. (2) Theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành, VKSND do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao: “Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng[5], các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phương, các VKS quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình”.[6] Về bộ máy tổ chức của VKSND, Hiến pháp năm 1992 quy định vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức của VKSND như trong quy định tại Hiến pháp năm 1980.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng để tạo ra sự năng động, linh hoạt và chủ động cho các thành phần kinh tế. Do vậy, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và Luật Tổ chức VKSND 2002, quy định VKSND thôi không thực hiện chức năng kiểm sát chung (trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội) mà VKSND tập trung thực hiện hai chức năng gồm: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Nhằm tiếp tục ghi nhận và khẳng định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp[7]. Theo đó, VKSND có nhiệm vụ “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”[8].
Về tổ chức bộ máy, hệ thống VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân gồm 04 cấp kiểm sát sau đây: (1) Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; (2) Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao[9]; (3) Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (VKSND cấp tỉnh) thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa bàn tỉnh mình; (4) Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (VKSND cấp huyện) và tương đương thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa bàn cấp huyện. Viện kiểm sát quân sự các cấp gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương và Viện kiểm sát quân sự khu vực: Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án hình sự theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
Tính đến thời điểm hiện tại, trải qua thực tiễn 63 năm xây dựng và trưởng thành, có thể khẳng định, VKSND là thiết chế quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật góp phần thực hiện tốt hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước bảo đảm theo nguyên tắc “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp[10]. Bởi vì, theo xu hướng chung, trong mỗi hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đều có xu hướng lạm dụng quyền lực nhà nước do những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Và như vậy, để các cơ quan trong bộ máy nhà nước vận hành có hiệu lực, hiệu quả cao, tránh sự lạm quyền thì yêu cầu đặt ra là nhà nước phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cơ chế kiểm tra, kiểm soát của hệ thống thanh tra nhà nước các cấp, sự kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, Nhân dân; đặc biệt là vai trò của VKSND trong thực hiện chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” phải được tăng cường và thực hiện thường xuyên, hiệu quả. Đồng thời ở phương diện khác, thông qua thẩm quyền giám sát tối cao đối với tổ chức và hoạt động của VKSND, Quốc hội yêu cầu VKSND (trực tiếp là đồng chí Viện trưởng VKSND tối cao) báo cáo, giải trình và trả lời chất vấn trước Quốc hội những vấn đề mà Quốc hội, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, Đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của VKSND. Quốc hội có thể thông qua các “kênh thông tin” của VKSND để nắm được những vấn đề bất cập trong công tác tổ chức thực thi pháp luật, đặc biệt là những khó khăn, hạn chế, tồn tại trong hoạt động tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình v.v…), từ đó có những cơ sở khoa học và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Như vậy có thể nói rằng, thông qua quy định tại các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và 2013, chức năng, nhiệm vụ, VKSND đã được xác định ngày càng rõ hơn, điều này góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua. Đây là nhu cầu tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đặc biệt, trong Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.[11] Với cách thức tổ chức và thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay đã có những đóng góp tích cực trong việc phát huy hiệu lực quản lý của nhà nước và quyền dân chủ của Nhân dân, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng liên tục với tốc độ cao của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế hội nhập để phát triển.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, đẩy mạnh cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 27/NQ-TW, ngày 9 tháng 11 năm 2022 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Để đáp ứng tốt yêu cầu công tác, VKSND cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung là:
Thứ nhất, phát huy hơn nữa vai trò của VKSND trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là phải gắn chặt việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để tránh sự lạm quyền giữa các nhánh quyền lực và tránh tình trạng “lợi ích nhóm” trong những tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền. Vì thế, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của VKSND, cần thiết phải quy định rõ hơn về thẩm quyền và tăng cường tính độc lập của VKSND trong hoạt động tư pháp (trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp). Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới: “Hoàn thiện thể chế để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Thứ hai, chú trọng xây dựng đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng theo yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay.
Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, đã đặt ra yêu cầu về việc phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống tư pháp đáp ứng được nhiệm vụ về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay: “Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật”. Chức năng của VKSND là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, vì vậy vai trò của Kiểm sát viên rất quan trọng. Do vậy để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tình thần của Nghị quyết 27 – NQ/TW thì VKSND cần quan tâm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên các cấp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội, coi đây là một trong những nội dung quan trọng của VKSND trong tiến trình cải cách Tư pháp. Bởi vì, hiệu lực quản lý của Nhà nước một phần cũng phụ thuộc vào chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan VKSND các cấp. Do vậy, trước hết cần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm làm việc cho đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên đảm bảo vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm.
Thứ ba, trang bị cơ sở vật chất, xây dựng cơ chế và mở rộng đối tượng tuyển dụng, chú trọng đến chế độ đãi ngộ đối với VKSND trong giai đoạn hiện nay
Có thể nói VKSND là một trong những cơ quan nhà nước góp phần rất lớn bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất. Nhằm phát huy được vai trò của VKSND, bên cạnh việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thì cơ sở vật chất, cơ chế tuyển dụng và chế độ đãi ngộ cũng góp phần rất quan trọng. Vì vậy, Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, đã xác định những nhiệm vụ và giải pháp để trang bị cơ sở vật chất cũng như phát triển nguồn nhân lực tư pháp trong đó có VKSND trong thời gian tới là: Phát triển khoa học pháp lý, nâng cao chất lượng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo pháp luật. Có cơ chế thích hợp bảo đảm và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng hiệu quả kinh phí xây dựng và thi hành pháp luật. Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Như vậy có thể nói rằng, VKSND là “cánh tay nối dài” của Quốc hội để giám sát, kiểm soát đối với nhánh quyền lực tư pháp. Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp, tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Cùng với chủ trương tăng cường chức năng công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, VKSND các cấp cần chủ động xây dựng mối quan hệ phối hợp công tác với Cơ quan Điều tra, nhất là xây dựng các quy chế phối hợp liên ngành. Nâng cao vai trò lãnh đạo, điều hành của Viện trưởng VKSND các cấp và ý thức, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Kinh nghiệm cho thấy, ở địa phương nào, lãnh đạo Viện sâu sát trong quản lý, chỉ đạo, điều hành thì ở đó chất lượng công tác Kiểm sát được nâng lên rõ rệt. Do vậy, cần xây dựng và hoàn thiện VKSND là thiết chế của nền công tố mạnh, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ, công vụ, bảo đảm giữ vững nguyên tắc pháp chế XHCN và phát huy toàn diện vai trò của VKSND trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam giai đoạn hiện nay./.
[1] Xem Điểm 3, Điều 107 – Hiến pháp 2013.
[2] Xem Điều 2, Hiến pháp năm 2013.
[3] Hiện nay được gọi chung là chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
[4] Điều 138 Hiến pháp 1980; Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1981.
[5] Nay là Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
[6] Điều 138 Hiến pháp 1980.
[7] Xem Khoản 1, Điều 107 Hiến Pháp 2013.
[8] Xem Khoản 3, Điều 107 Hiến pháp 2013.
[9] Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND 2014, VKSND cấp cao được thành lập ở 03 khu vực.
[10] Xem Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
[11] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013