Vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

ThS. Lê Thị Nga
Phó Trưởng phòng ĐT, QLKH và Hợp tác quốc tế

Việc áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử lý hình sự đối với hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong thực tiễn có vướng mắc, bất cập do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất.
1. Một số vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

– Chưa thống nhất trong việc xác định dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm:

Theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) thì “người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật…” Vậy khi áp dụng quy định này, dấu hiệu “thực hiện hành vi trái pháp luật” có bắt buộc phải có đối với cả hai dạng hành vi của tội này hay không.

Vấn đề này hiện nay chưa thống nhất trong nhận thức áp dụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức thì đã cấu thành tội phạm. Dấu hiệu “thực hiện hành vi trái pháp luật” chỉ là dấu hiệu khách quan của Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Điều luật không yêu cầu việc làm giả này nhằm sử dụng vào mục đích gì. Quan điểm thứ hai cho rằng, cụm từ “thực hiện hành vi trái pháp luật” gắn liền với cả Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và cả hai tội này đều có dấu hiệu định tội là thực hiện hành vi trái pháp luật.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi vì xét về kết cấu của Điều 341 BLHS năm 2015 có thể thấy, cụm từ “thực hiện hành vi trái pháp luật” gắn liền với cả hành vi làm giả cũng như hành vi sử dụng. Theo điểm b khoản 4 Điều 8 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì: “… Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: … Làm giả con dấu hoặc sử dụng con dấu giả”. Quy định này cho thấy ranh giới mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được xác định để xử lý hình sự hoặc xử lý hành chính đối với hành vi này. Nếu chỉ dừng lại ở việc thực hiện hành vi làm giả hoặc sử dụng con dấu, tài liệu giả thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chưa đáng kể. Tuy nhiên, nếu hành vi làm giả hoặc sử dụng con dấu, tài liệu giả được thực hiện gắn với mục đích “thực hiện hành vi trái pháp luật” thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã ở mức độ đáng kể để có thể bị xử lý hình sự. Trên thực tế, khi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức thì các đối tượng thường nhằm đến một mục đích nhất định, có thể là bán cho người khác để  thu lợi bất chính; hợp thức hóa những hồ sơ giấy tờ khác; sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác… Nếu các đối tượng làm giả con dấu, tài liệu nhưng không có hoặc chưa có mục đích cụ thể thì chưa phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, trên thực tế, cũng có những đối tượng vì sở thích bản thân hay vì muốn chứng minh tài năng với người khác nên đã thực hiện hành vi làm con dấu giả, nhưng lại không sử dụng con dấu giả đó vào bất kỳ mục đích hay hành vi trái pháp luật nào. Việc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong trường hợp này không nhằm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì chưa gây ra nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự mà xử lý bằng các biện pháp khác như biện pháp xử lý phạt hành chính. Như vậy, hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức phải nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

– Chưa thống nhất trong việc xác định tội danh trong trường hợp cung cấp thông tin cho người khác làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức sau đó sử dụng con dấu, tài liệu đó để thực hiện hành vi trái pháp luật

Ví dụ, Trương Văn S, điều khiển xe mô tô đến tiệm cầm đồ do anh Nguyễn Đình D làm chủ để cầm cố xe với số tiền 18.000.000 đồng. D kiểm tra xe và giấy tờ thì nghĩ S là chủ sở hữu nên đồng ý cầm cố xe mô tô lấy tiền, nên D báo Công an. Qua xác minh phát hiện xe mô tô được S mua lại của một người tên T ( không rõ lai lịch) qua mạng cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn L. Sau đó, S đưa thông tin và hình ảnh của mình để thuê T làm thêm 01 giấy chứng minh nhân dân giả cho mình mang tên Nguyễn Văn L rồi đem xe mô tô trên đi cầm cố để lấy tiền và không có ý định chuộc lại. Bản giám định kết luận chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe đều là giả, được làm bằng phương pháp in màu phun điện tử. Việc xác định tội danh đối với S trong trường hợp này có nhiều quan điểm chưa thống nhất.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, S chỉ phạm tội làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức. Mặc dù S không trực tiếp thực hiện việc làm giả con dấu hoặc tài liệu nhưng đã chủ động thuê và cung cấp thông tin cá nhân cho đối tượng T (không rõ lai lịch) làm giả giấy chứng minh nhân dân theo yêu cầu của S. Do vậy, hành vi của S đủ yếu tố cấu thành Tội làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Quan điểm thứ hai cho rằng, S chỉ phạm tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, S là người trực tiếp thuê và cung cấp thông tin cá nhân cho đối tượng làm giả giấy chứng minh nhân dân. S không có hành vi trực tiếp làm giả như khắc, đục, tạo ra mẫu dấu, giấy tờ, tài liệu giả… mà chỉ có hành vi cung cấp thông tin cho T để T làm giả. S đã dùng giấy tờ giả để thực hiện hành vi trái pháp luật là đi cầm cố tài sản, do đó việc cung cấp thông tin cá nhân cho đối tượng làm giả giấy chứng minh nhân dân là tất yếu nhằm thực hiện mục đích của mình. Trong quá trình giao dịch, S phải cung cấp thông tin cần thiết để đối tượng làm giả thực hiện theo yêu cầu. Nếu đồng nhất khái niệm làm giả với việc đặt mua giấy tờ, tài liệu giả, vô hình trung sẽ không có ranh giới giữa hành vi sử dụng và hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi của S phạm cả hai tội là Tội làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan tổ chức và Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, S có nhu cầu dùng chiếc xe máy mà mình mua của T đi cầm cố nhưng không đủ giấy tờ nên đã thuê đối tượng T làm giả giấy chứng minh nhân dân để đi cầm cố chiếc xe. Mục đích của việc làm giấy chứng minh nhân dân giả là để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thông qua việc cầm cố chiếc xe để lấy tiền và không chuộc lại. Hành vi làm giả giấy chứng minh nhân dân và hành vi sử dụng giấy chứng minh nhân dân để thực hiện hành vi trái pháp luật có mối quan hệ tất yếu, chặt chẽ với nhau, do đó, phải truy cứu trách nhiệm hình sự đầy đủ đối với tất cả các hành vi nêu trên về Tội làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức và Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Tác giả đồng tình với quan điểm thức nhất. Bởi lẽ hành vi cung cấp thông tin, hình ảnh cho đối tượng T để làm giấy tờ giả với mục đích cầm cố tài sản. Hành vi của S là đồng phạm với T trong việc làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, hành vi của S cấu thành Tội làm giả con dấu hoặc tài liệu của cơ quan tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015.

 – Chưa thống nhất trong việc xác định số lượng con dấu, tài liệu giả để định khung hình phạt theo quy định tại điểm c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 341 BLHS năm 2015 Hiện nay có 02 quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các tài liệu cùng loại (giấy khám sức khỏe, chứng nhận nghỉ ốm có thể đã điền hay chưa điền thông tin người bệnh…) thì được tính là 01 con dấu hoặc tài liệu để định khung hình phạt (ví dụ: 10 giấy khám sức khỏe được tính là 01 tài liệu giả).

Quan điểm thứ hai cho rằng, mỗi tài liệu cùng loại hay khác loại, dù điền hay chưa điền thông tin người mua đều được tính là 01 con dấu, tài liệu để định khung hình phạt (ví dụ: 10 giấy khám sức khỏe được tính là 10 tài liệu giả).

Theo tác giả, việc xem xét mỗi con dấu, tài liệu có thể là cùng loại hay khác loại, đã có thông tin người mua hay chưa đều được xem là 01 tài liệu giả; mỗi một tài liệu giả có đầy đủ con dấu của cơ quan và chữ ký của người có thẩm quyền, mặc dù chưa điền đầy đủ thông tin người mua thì vẫn được xem là một tài liệu giả và là căn cứ để quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội. Một tài liệu giả đã có đầy đủ con dấu, chữ ký và được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật đối với mỗi trường hợp khác nhau thì nó phải được xem là một loại tài liệu giả riêng biệt, độc lập. Do đó, cùng một loại tài liệu giả (như giấy khám sức khỏe giả, giấy chứng nhận nghỉ ốm…) nhưng được làm giả với số lượng lớn và mặc dù đã điền đầy đủ thông tin hoặc chưa điền đầy đủ thông tin người mua thì cần xác định là nhiều tài liệu giả khác nhau và căn cứ vào số lượng tài liệu giả để định khung và quyết định hình phạt.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 341 BLHS năm 2015 thành: “Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm”.

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn trong việc xác định đồng phạm đối với hành vi thuê người làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Liên quan đến vấn đề này, mục 2 Công văn số 1648/VKSTC-V7 ngày 27/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu rõ: “Trường hợp không xác định được người trực tiếp làm giả mà chỉ sử dụng thì xử lý Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức…”. Tuy nhiên, công văn này chỉ mang tính đơn ngành, do đó, để có căn cứ áp dụng chung và thống nhất thì liên ngành tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, trường hợp xác định số lượng con dấu giả, tài liệu giả, giấy tờ giả để định khung, quyết định hình phạt cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, theo hướng: “Mỗi tài liệu giả được tính là một tài liệu giả khác nhau không phụ thuộc vào tài liệu đó cùng loại hay khác loại, có thông tin người mua hay chưa…”.

Nguồn: Tạp chí Kiểm sát số 7/2025