Quy định về lãi suất và hậu quả xác định mức lãi suất trong giao dịch dân sự đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Lương Hữu Hải – Giảng viên Khoa hình sự – Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP.HCM

Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì quy định pháp lý về lãi suất cho vay cần phải được cụ thể hóa nhằm bảo về quyền lợi cho các bên khi tham gia vào các giao dịch dân sự có thỏa thuận về lãi suất xác định trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự khi tham gia quan hệ vay mượn có thỏa thuận lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về mức lãi suất trong giao dịch dân sự đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự và hình sự.

Trong bài viết này tác giả tập trung nghiên cứu, phát triển và làm rõ lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự để xác định trách nhiệm hình sự trong Tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 viết tắt là BLHS năm 2015) và hậu quả của việc xác định các mức lãi suất khi cho vay từ trách nhiệm dân sự đến trách nhiệm hình sự.

Như chúng ta biết trong hành vi khách quan của Tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được thực hiện dưới hai hình thức cấu thành cơ bản là: cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS và thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng …như vậy để làm rõ dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm này thì chúng ta phải phân tích hành vi: “Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự”. Như vậy, lãi suất cao nhất theo BLDS là bao nhiêu? Theo quy định tại Điều 468 của BLDS 2015 thì lãi suất trong hợp đồng vay được xác định như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. ….

Như vậy, lãi suất do các bên thỏa thuận khi vay và không được vượt quá 20%/năm hay  1,666%/tháng (20% : 12 tháng) hoặc 0,0547%/ngày (20% : 365 ngày).

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Theo quy đinh của BLDS thì bản chất trong quan hệ giao dịch dân sự thì do các bên tự xác lập thỏa thuận về lãi suất để giao dịch dân sự như vậy người đi vay và người cho vay tự thỏa thuận về lãi suất vay, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản vay. Điều 468 BLDS là quy định mở mang tính tùy nghi “trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác”. Theo quy định tại Điều 468 BLDS  thì vấn đề đó đâu là trường hợp pháp luật có liên quan có quy định khác là quy định nào. Hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn về vấn đề này.

Hiện nay quan hệ hợp đồng vay tài sản trong giao dịch dân sự được điều chỉnh bởi hai quy định pháp luật khác nhau là hợp đồng cho vay tài sản giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng (cá nhân, pháp nhân) được điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng và quan hệ cho vay tài sản giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau thì được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự.

Trong hoạt động cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng thì theo khoản 2, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về Lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng quy định “2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Như vây, trong quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng thì lãi suất giữa các bên là thỏa thuận, cũng không quy định mức trần là bao nhiêu để giới hạn lãi suất ngoại trừ theo khoản 1 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (cá nhân, pháp nhân) thì quy định: “1. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp …cho vay tối đa tại khoản 2 Điều này[1]. Như vậy, theo quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản hướng dẫn dưới luật thì bản chất lãi suất cho vay giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng (cá nhân, pháp nhân) là sự thỏa thuận giữa hai bên nhưng không có nghĩa các tổ chức tín dụng và khách hàng muốn thỏa thuận về lãi suất bao nhiêu cũng được, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Thông tư 39 thì trong một số trường hợp cho vay thì mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn như trình bày ở trên.

Như vây, trong quan hệ giao dịch bằng hợp đồng vay tài giữa các các nhân hoặc pháp nhận nhưng không phải là các tổ chức tín dụng thì xác định lãi suất phải theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 quy định “…Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.” Có nghĩa việc thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm.

Như vậy, mức lãi suất để xác định giải quyết bằng một vụ án dân sự hay là cơ sở, điều kiện để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự được chia làm ba trường hợp như sau:

Trường hợp 1: mức lãi suất từ 0% đến dưới 20% thì đây là giao dịch giữa các bên theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS nghĩa là các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, nếu mức lãi suất dưới 20%/năm đây là mức lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên theo Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải quyết trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử (sau đây viết tắt là Công văn 212) thì đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm tuy không bị tính khi xác định TNHS, nhưng đây cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm,….. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án phải tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản tiền này. Theo quan điểm của tác giả thì việc tịch thu khoản tiền lãi này là không hợp lý vì đối chiếu với quy định tại Điều 47 BLHS về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm thì đây không thuộc trường hợp bị tịch thu sung công quỹ và đây là khoản tiền lãi phù hợp với quan hệ giao dịch dân sự khi có sự thỏa thuận đồng ý xác lập giao dịch về lãi suất giữa các bên và phù hợp với quy định tại Điều 468 BLDS thì không nên tịch thu công quỹ.

Trường hợp 2: nếu các bên trong giao dịch dân sự có thỏa thuận với mức lãi suất từ 21% trở lên đến dưới 100% thì đây là “Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.” và hậu quả là “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhậnkhoản 1 Điều 131 BLDS năm 2015. Như vậy đây là một giao dịch dân sự vô hiệu cũng theo Công văn 212 hướng dẫn thì khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm đến dưới 100%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay tiền trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy là phù hợp vì bản chất đây là quan hệ giao dịch dân sự có sự thỏa thuận, tự nguyện xác lập giao dịch. Hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự để xem xét TNHH là cho vay vượt quá mức lãi suất 100%/năm, nêu chỉ dừng lại dưới 100%/năm thì hành vi này không cấu thành tội phạm như vậy sẽ được điều chỉnh bởi một quan hệ pháp luật khác mà cụ thể là quan hệ pháp luật dân sự.

Trường hợp 3: nếu các bên thỏa thuận lãi suất từ 100%/năm trở lên thì hậu quả là cơ sở và điều kiện thứ nhất để xem xét xử lý TNHS theo Điều 201 BLHS. Nghĩa là, nếu cho vay với lãi suất gấp 05 lần (100%/năm) trở lên và điều kiện thứ 2 là thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng thì có thể thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Điều 201 BLHS và số tiền lãi năm ở mức lãi suất từ 100%/năm trở lên là khoản tiền thu lợi bất chính để xác định TNHS nên sẽ được tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định Điều 47 BLHS.

Một vấn đề cần được làm rõ liên quan đến lãi suất trong giao giao dịch dân sự là xác định số ngày trong một năm để tính tiền lãi hiện nay thì các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thống nhất trong việc xác định số ngày trong một năm để tính số tiền lãi. Theo Nghị quyết 01/2019/HĐTP ngày 11/01/2019 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì công thức tính tiền lãi thì nợ gốc trong hạn chưa trả = (nợ gốc chưa trả) x (lãi suất theo thỏa thuận hoặc 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015 tại thời điểm trả nợ) x (thời gian vay chưa trả lãi trên nợ gốc) [2]. Như vậy theo khoản 1 Điều 468 BLDS thì lãi suất 20%/năm là trên bao nhiêu ngày 360 hay 365 ngày hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa có sự thống nhất nếu xác định sai số ngày sẽ ảnh hưởng đến số tiền lãi thu lợi bât chính của người đi vay sẽ ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lý của họ mà ranh giới là chịu trách nhiệm hình sự hay là trách nhiệm dân sự. Trong thực tiễn thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng 1 năm 360 ngày nên sẽ chia cho 360 ngày nhưng thực tế là không phải như vậy. Theo Thông tư số 14/2017/TT-NHNN quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng thì số ngày trong một năm để tính lãi là 365 ngày thay thế cho quy định cũ là 360 ngày theo Điều 9 Quyết định 652 của thống đốc ngân hàng nhà nước số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 5 năm 2001 về việc ban hành quy định phương pháp tính và hạnh toán thu, trả lãi của ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng như đây là quy định điều chỉnh việc tính lãi theo Luật các tổ chức tín dụng còn theo việc điều chỉnh về phương pháp tính lãi theo BLDS thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn là số ngày trong một năm để tính lãi là 365 ngày hay 360 ngày nhưng theo quy định tại  điểm a khoản 1 Điều 146 BLDS quy định về thời hạn, thời điểm tính thời hạn thì một năm là 365 ngày nên khi xác định số ngày trong một năm để tính lãi là 365 ngày chứ không phải là 360 ngày. Do đó, nếu chúng ta tính lãi một năm 360 ngày là sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trách nhiệm pháp lý của người cho vay vì số tiền lãi thu lợi bất chính thu được sẽ rất lớn hơn nhiều so với việc tính lãi một năm 365 ngày.

Từ những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến lãi suất và hậu quả xác định mức lãi suất trong giao dịch dân sự để xem xét TNHH đối với tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:

– Hội đồng thẩm phán TANDTC cần ban hành nghị quyết hướng dẫn cụ thể về số ngày trong một năm để tính lãi phù hợp với Thông tư số 14/2017/TT-NHNN  trong việc quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng là 365 ngày để đảm bảo thống nhất trong việc giải quyết vụ án dân sự cũng như làm căn cứ để xác định TNHS đối với Tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

– Hội đồng thẩm phán TANDTC cần ban hành nghị quyết để hướng dẫn việc xử lý đối với khoản tiền lãi thu lợi được từ việc cho vay ở mức lãi suất 20%/năm trở xuống thì không phải tịch thu sung công quỹ như Công văn 212 hướng dẫn như đã phân tích ở trên.

– Bên cạnh đó, để hoàn thiện hơn quy định lãi suất theo quy định tại Điều 468 BLDS thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp để ban hành văn bản hướng dẫn trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, “trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” cũng cần có hướng dẫn để làm rõ những trường hợp ngoại lệ là những trường hợp nào được vượt quá 20%/năm.

Tài liệu tham khảo:

1. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 30 tháng 12 năm 2016 về quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;

2. Thông tư số 14/2017/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 29 tháng 9 năm 2017 về quy định phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng;

3. Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải quyết trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.

4. Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2020/DSST ngày 14 tháng 8 năm 2020;

5. Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án dân sự phúc thẩm số 165/2020/ DS-PT ngày 31 tháng 12 năm 2020

6. Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Bản án số 80/2018/HS-ST, ngày 29 tháng 11 năm 2018.

7. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, Bản án số 09/2019/HS-PT, ngày 18 tháng 01 năm 2019.

8. Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An, Bản án số 15/2019/HS-ST, ngày 14 tháng 3 năm 2019.

9. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 226/2017/HS-ST, ngày 26 tháng 9 năm 2017.

10. Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, Bản án số 233/2018/HS-ST, ngày 19 tháng 9 năm 2018.

[1] Thông tư số 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước ngày 30 tháng 12 năm 2016 về quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;

[2] điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 01/2019/HĐTP ngày 11/01/2019 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm