Những quy định mới về việc tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung và một số kiến nghị hoàn thiện
Trong những năm qua, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt tạo ra nhiều thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm, nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, có nhiều đối tượng tham gia nên việc điều tra, xác minh gặp nhiều khó khăn trong khi thời hạn điều tra vụ án theo quy định pháp luật bị giới hạn. Các vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thường là những vụ án lớn, phức tạp, các chứng cứ tài liệu ban đầu chưa rõ ràng, song trong quá trình điều tra chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án hoặc những nội dung có mâu thuẫn nhưng cơ quan pháp luật có thẩm quyền chưa xác minh điều tra làm rõ được. Nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được chặt chẽ, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) đã bổ sung quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Chế định của pháp luật tố tụng hình sự quy định về việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng, nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra tuân thủ theo các quy định của pháp luật, hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội có căn cứ và bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, khách quan, toàn diện và đầy đủ, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Kế thừa các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 (điểm g khoản 2, khoản 3 Điều 36; điểm b khoản 2 Điều 39; khoản 2 Điều 121; Điều 168; điểm b khoản 2 Điều 176; Điều 179; khoản 2 Điều 199) và Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Thông tư liên tịch số 01/2010). Bộ luật TTHS năm 2015, có hiệu lực ngày 01/7/2016 tiếp tục quy định chế định này tại điểm m khoản 2 Điều 41; điểm b khoản 2 Điều 45; khoản 2 Điều 174; khoản 5 Điều 236; Điều 245; Điều 246; Điều 280. Trong đó, có một số điểm mới cơ bản cần lưu ý như sau:
Một là, về căn cứ để tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Bộ luật TTHS 2015 quy định gồm có bốn căn cứ theo khoản 1 Điều 245 và khoản 1 Điều 280, nhiều hơn một căn cứ so với Bộ luật TTHS năm 2003, cụ thể như sau:
Điểm b khoản 1 Điều 245 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác”. Như vậy, Bộ luật TTHS 2015 đã sử dụng cụm từ “có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác” thay cho cụm từ “một hay nhiều” của Bộ luật TTHS 2003. Như vậy, Bộ luật TTHS 2015 đã bao quát đầy đủ các trường hợp như ngoài tội phạm mà bị can thực hiện đã được khởi tố, điều tra đến thời điểm truy tố phát hiện bị can còn thực hiện từ hai tội phạm khác trở lên thì đây cũng chính là căn cứ để Viện kiểm sát ra Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Điểm c khoản 1 Điều 245 và điểm c khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS 2015 quy định“Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm căn cứ nếu có người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cũng được xem là căn cứ để Tòa án, Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã quy định các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án gồm có bốn căn cứ, nhiều hơn một căn cứ so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Cụ thể là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
– Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà không thể bổ sung tại phiên tòa được (Điểm a Khoản 1 Điều 280);
– Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm (Điểm b Khoản 1 Điều 280);
– Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can (Điểm c Khoản 1 Điều 280);
– Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (Điểm d Khoản 1 Điều 280).
Thực tế thì căn cứ “Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” (Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) đã được tách ra làm hai căn cứ: “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” và “Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Về mặt diễn đạt điều luật đã sửa đổi và bổ sung thêm một số từ ngữ nhằm nâng cao sự chính xác về kỹ thuật xây dựng văn bản. Bên cạnh đó, Điểm c khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm nội dung nếu có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cũng được xem là căn cứ để Tòa án, Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Hai là, về số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần”. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giới hạn cụ thể trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Như vậy, so với quy định tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giảm số lần Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ “hai lần” xuống còn “một lần”.
Xoay quanh vấn đề này có một số quan điểm khác nhau, nhưng có 2 nhóm quan điểm sau: Nhóm quan điểm thứ nhất đồng ý với ý kiến cho rằng Tòa án chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa tối đa một lần; Nhóm quan điểm thứ hai lại cho rằng số lần trả điều tra bổ sung chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trước khi xét xử, còn đối với yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là do Hội đồng xét xử quyết định nên không hạn chế về số lần quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
Tác giả đồng quan điểm với ý kiến thứ nhất bởi khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, những thiếu sót có thể khắc phục được thì nên phối hợp với Viện kiểm sát để khắc phục, những tài liệu chứng cứ không thể khắc phục được hoặc những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác hoặc đồng phạm khác thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thẩm phán phải có trách nhiệm đối với đối với những nội dung yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Mặt khác quá trình điều tra luôn có sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, chức năng của Tòa án là xét xử nên việc quy định Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần là hợp lý.
Quy định này thể hiện sự chặt chẽ hơn, tránh sự tùy tiện, lạm dụng việc trả hồ sơ để kéo dài thời gian giải quyết vụ án bởi vì theo quy định hiện hành Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần điều đó có nghĩa là cả hai lần trả hồ sơ, Tòa án có thể quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa. Quy định này còn thể hiện sự phù hợp với nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử theo tinh thần của Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp”. Rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu như Tòa án đã trả hồ sơ hai lần trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì kết quả điều tra công khai tại phiên tòa sẽ không có ý nghĩa với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nữa vì Tòa án đã hết số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định mới này trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được bất cập nêu trên góp phần đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Ba là, về việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của tòa án.
Đây là một quy định mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết như sau:
– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết;
– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.
Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng luật hóa một số nội dung mới như trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát có thể trực tiếp bổ sung mà không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra (Điều 246) hoặc trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ (khoản 2 Điều 280). Điều này tạo sự chủ động cho Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hạn chế được tình trạng giải quyết vụ án bị kéo dài.
Nhìn chung, các quy định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong BLTTHS năm 2015 đã cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi nhằm đảm bảo thống nhất với các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, đó là:
Thứ nhất, về các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
– Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung “khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được” quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong thực tế có nhiều trường hợp, Thẩm phán thụ lý vụ án khi nghiên cứu hồ sơ thấy có chứng cứ chưa rõ hoặc có quan điểm đánh giá chứng cứ khác với quan điểm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung khi chưa đưa vụ án ra xét xử, chưa thẩm tra chứng cứ thiếu sót thông qua việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa. Để tránh trường hợp trên và tránh việc lạm dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi nghiên cứu chưa kĩ hồ sơ thì cần quy định theo hướngchặt chẽ hơn: Tại phiên tòa, nếu qua quá trình xét hỏi, tranh luận mà thấy có chứng cứ quan trọng chưa được điều tra làm rõ hoặc phát sinh tình tiết mới không thể làm rõ tại phiên tòa thì mới được trả hồ sơ điều tra bổ sung.
– Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi “việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”. Cần quy định rõ hơn về hành vi vi phạm thủ tục tố tụng. Theo tác giả, cần quy định theo hướng làm rõ những vi phạm đó là những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng mà gây xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng, chẳng hạn như bị can. Đối với trường hợp này thì cũng cần phải có thêm điều kiện là Tòa án không thể tự mình bổ sung được, nên cần phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.
Bên cạnh đó, tại Khoản 2 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ”. Khi đó, Tòa án sẽ xem xét văn bản đề nghị của Viện kiểm sát, từ đó ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Thứ hai, về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định nội dung “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung”, còn nội dung Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung lại được quy định tản mạn, rải rác ở trong những điều luật khác có liên quan. Điều này vô hình chung tạo nên một sự nhầm lẫn về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. Cụ thể là hiện này vẫn còn tồn tại những cách hiểu sai lầm về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, đó là cho rằng việc yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung chỉ có thể do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành và chỉ có thể tiến hành trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Thứ ba, về thời hạn điều tra bổ sung và gia hạn điều tra bổ sung.
Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp hồ sơ do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 2 tháng; còn nếu do Tòa án trả lại hồ sơ thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 1 tháng. Thời hạn điều tra bổ sung được tính từ ngày Cơ quan Điều tra nhận lại hồ sơ vu án và yêu cầu điều tra.
Như vậy, Bộ luật mới chỉ quy định thời điểm bắt đầu của thời hạn Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra là tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận được hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Còn đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát và Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì Bộ luật chưa quy định thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp này. Vì vậy, cần thiết bổ sung quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải chuyển cho Cơ quan Điều tra và quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Tòa án ra quyết định trả điều tra bổ sung thì Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Thứ tư, về việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án.
Pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn cho Viện kiểm sát xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. Đây là thiếu sót và nguyên nhân làm chậm quá trình giải quyết vụ án bởi khi Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, VKS sẽ tiến hành xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan Điều tra tiến hành bổ sung các vấn đề mà Tòa án yêu cầu. Vì vậy, nếu không quy định thời hạn cho VKS, việc bổ sung có thể bị chậm và không cơ quan nào có trách nhiệm về sự chậm trễ đó. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về thời hạn để VKS xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để rút ngắn thời gian tố tụng. Theo đề xuất, nếu như thời hạn Tòa án chuyển quyết định, hồ sơ cho VKS là 03 ngày thì cũng nên ghi nhận thời hạn VKS xem xét quyết định: “Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, VKS phải xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan Điều tra”.
Nhìn chung, yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phải thể hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng; đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định của pháp luật./.
Nguyễn Thị Hoài Thương
Chuyên viên phòng Quản lý khoa học và Thông tin tư liệu Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP.HCM