Người bị phạt tù không được hưởng án treo

Thi Anh – Học viên lớp Đào tạo, nghiệp vụ kiểm sát Khóa 33

Án treo là một trong những hình thức khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta để các đối tượng phạm tội có cơ hội làm lại cuộc đời. Điều này được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật.     

1. Khái niệm về án treo

Nghị Quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nêu rõ: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.

2. Căn cứ để được hưởng án treo

Thứ nhất: Người phạm tội, khi xử phạt tù không quá 03 năm.

 Đây là quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS hiện hành và cũng phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị Quyết số 02/2018, Nghị quyết số 01/2022 về án treo. Cho thấy, người phạm tội khi bị xử phạt tù không quá 03 năm thì thuộc diện được xem xét cho hưởng án treo.

Thứ hai, người phạm tội phải có nhân thân tốt.

Trong quá trình định tội người phạm tội, cần phải xem xét đến yếu tố về nhân thân. Tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP đã chỉ rõ, ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân, ở nơi cư trú, nơi làm việc.

Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích (quy định tại khoản 1 Điều 107 BLHS), người bị kết án nhưng đã được xóa án tích (quy định tại Điều 70,71,72, khoản 2 Điều 107 BLHS), người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.

Bên cạnh đó, người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo; đối với người bị kết án mà vụ án đã được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo”.

Thứ ba, người phạm tội phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên.

 Tại khoản 1 Điều 65 BLHS quy định, người được hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Trên cơ sở pháp luật hình sự quy định, Hội đồng thẩm phán đã hướng dẫn thông qua khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP về cách hiểu đối với 02 tình tiết giảm nhẹ, đó là, người phạm tội phải có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51BLHS và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52 BLHS.  Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên

Thứ tư, người phạm tội phải có nơi cư trú, nơi làm việc rõ ràng

Khi người phạm tội chứng minh được nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục thì đáp ứng một trong các điều kiện được hưởng án treo. Nơi cứ trú rõ ràng được hiểu là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo; nơi làm việc ổn định là nới người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo Hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (khoản 4 Điều 2 Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP).

Thứ năm, thuộc trường hợp không phải bắt chấp hành hình phạt tù

Xét thấy người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Thứ sáu, xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo đã bị tạm giữ, tạm giam

 Thời gian đã tạm giữ, tạm giam đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo không được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt tù để ấn định thời gian thử thách. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào thời gian chấp hành án phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới; trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm lần sau (Nghị Quyết Số: 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/ 4 /2022).

Ngoài những điều kiện được hưởng án treo nêu trên, khi xem xét, quyết định cho bị cáo được hưởng án treo Tòa án cũng phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện bảo đảm việc hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với những trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ các trường hợp: “người phạm tội dưới 18  tuổi; người phạm tội bị xét xử và kết án về hai tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội có vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Trên cơ sở quy định của pháp luật, cho thấy, án treo là một trong những chế định thể hiện tính nhân văn, giúp người phạm tội nhận biết được hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời, ăn năn hối cải, hoàn lương và trở thành người có ích trong xã hội.